Cuốn sách “Thế Giới Atlantis” là một phần tiếp theo trong series “Atlantis” của tác giả A.G. Riddle, và nó mang đến một câu chuyện đầy kịch tính và hấp dẫn.
Với sự xuất hiện của một thảm họa toàn cầu và một tín hiệu bí ẩn từ vũ trụ, cuốn sách mở ra một cuộc đua với thời gian để cứu vãn nền văn minh nhân loại. Tiến sĩ Kate Warner, đặc vụ David Vale và nhóm của họ phải đối mặt với sự truy đuổi của kẻ thù và những âm mưu nguy hiểm. Họ phải liều lĩnh vượt qua những nguy hiểm và khám phá các bí mật của Atlantis, từ con tàu còn sót lại trên Trái đất đến các trạm khoa học trên khắp thiên hà.
Cuộc đua này không chỉ là về sự sống còn của nhóm mà còn về sự cứu rỗi cho nhân loại. Ai sẽ là người chiến thắng trong cuộc đua khốc liệt này và liệu họ có thể vén màn những bí mật để cứu rỗi nhân loại khỏi bờ vực hủy diệt?
Với những tình tiết đầy kịch tính và sự hấp dẫn của các nhân vật, “Thế Giới Atlantis” hứa hẹn mang đến cho độc giả những trang sách đầy phiêu lưu và cảm xúc.
Mời các bạn đón đọc cuốn sách Thế Giới Atlantis của tác giả A. G. Riddle
—-
DẪN NHẬP
Đài thiên văn Arecibo
Arecibo, Puerto Rico
Suốt bốn mươi tám giờ qua, Tiến sĩ Mary Caldwell đã dành từng giây tỉnh táo nghiên cứu tín hiệu kính viễn vọng vô tuyến nhận được. Cô mệt rã rời, nhưng cũng đầy hồ hởi, và chắc chắn về một thứ: nó có tổ chức, một dấu hiệu của sự sống thông minh.
Phía sau cô, John Bishop, nhà nghiên cứu khách mời được bổ nhiệm tới đài quan sát, rót cho mình một ly đồ uống nữa. Anh ta đã uống hết sạch cả rượu Scotch, bourbon, rum, lẫn đủ loại rượu mà các nhà nghiên cứu qua đời tích trữ, cho đến khi chỉ còn sót lại mỗi schnapps đào. Anh ta uống rượu chay vì họ không có gì để pha cùng. Anh ta nhăn nhó khi tợp ngụm đầu tiên.
Bây giờ là 9 giờ sáng, ly rượu thứ ba được anh ta uống cạn sau hai mươi phút.
“Cô chỉ đang tưởng tượng thôi, Mare,” anh ta vừa nói vừa đặt chiếc ly rỗng xuống và tập trung vào việc rót đầy trở lại.
Mary ghét bị anh ta gọi là “Mare”. Chưa từng có ai gọi cô như thế. Cái tên đó làm cô liên tưởng đến một con ngựa cái[1]. Nhưng anh ta là bạn đồng hành duy nhất của cô, và hai người họ đã đạt đến ngưỡng gọi là thấu hiểu.
Sau cuộc bạo động khiến số người thiệt mạng ở Puerto Rico lên đến vài chục nghìn, họ đã ẩn náu trong Đài thiên văn này, và John đã lập tức tán tỉnh cô. Cô đã gạt đi. Lần tiếp theo là sau đó hai ngày. Sau đó, mỗi ngày anh ta đều tiến tới, lần sau còn quyết liệt hơn lần trước, cho đến khi anh ta hoàn toàn phải chịu khuất phục. Từ đấy trở đi, anh ta điềm tĩnh hơn, chỉ tập trung uống và bưông lời cạnh khóe.
Mary đứng dậy và dợm bước đến bên khung cửa sổ trông ra những cánh rừng và quả đồi Puerto Rico xanh mướt rậm rạp. Dấu hiệu duy nhất của văn minh là chảo vệ tinh náu mình trên một cao nguyên nằm giữa những quả đồi, hướng thẳng lên trời. Kính viễn vọng vô tuyến ở Đài thiên văn Arecibo là loại lớn nhất thế giới, thành tựu kỹ thuật của nhân loại. Nó là sự kết hợp hài hòa của các ngành khoa học đại diện cho đỉnh cao thành tựu của nhân loại gắn liền với một cảnh quan nguyên thủy tượng trưng cho quá khứ. Và giờ nó đã hoàn thành sứ mệnh tối thượng. Duy trì liên lạc.
“Là thật đó,” Mary nói.
“Sao cô biết?”
“Có địa chỉ của ta trên đó.”
John ngừng nhâm nhi đồ uống và nhìn lên. “Chúng ta nên ra khỏi đây, Mare. Quay về xã hội văn minh, về với con người. Sẽ tốt cho cô…”
“Tôi có thể chứng minh điều đó.” Mary di chuyển từ cửa sổ trở lại bên máy tính, gõ vài phím và bật tín hiệu. “Có hai chuỗi. Tôi thừa nhận mình không biết chuỗi thứ hai là gì… Nó quá phức tạp. Nhưng chuỗi thứ nhất đầu tiên bao gồm một vòng lặp đơn giản. Bật-Tắt. 0-1. Các số nhị phân.”
“Các bit.”
“Chính xác. Và có một mã thứ ba – một mã kết thúc. Nó xuất hiện sau mỗi bit thứ tám.”
“Tám bit. Một byte.” John để ly rượu sang bên cạnh.
“Nó là một mật mã.”
“Để làm gì?”
“Tôi chưa biết,” Mary bước lại chỗ máy tính để kiểm tra tiến độ. “Chưa đầy một giờ nữa quá trình phân tích sẽ hoàn tất.”
“Rất có thể chỉ ngẫu nhiên.”
“Không. Đoạn đầu, đoạn được mã hóa, bắt đầu bằng địa chỉ của chúng ta.”
John phá lên cười và lại nâng ly. “Tôi cho cô một phút đó, Mare!”
“Nếu anh định gửi tín hiệu đến một hành tinh khác, nội dung đầu tiên anh nhập vào là gì? Chính là địa chỉ.”
John vừa gật đầu vừa dốc thêm rượu vào ly. “Hừm, nhập cả mã zip nữa.”
“Các byte đầu tiên đại diện cho hai số: 27.624 và 0,00001496.”
John ngưng bặt.
“Nghĩ xem,” Mary nói tiếp. “Hằng số duy nhất xuyên suốt toàn bộ vũ trụ là gì?”
“Trọng lực?”
“Trọng lực là không đổi, nhưng cách tính trọng lực phụ thuộc vào độ cong của không-thời gian, khoảng cách giữa một vật thể có khối lượng với vật thể khác. Anh cần một mẫu số chung, thứ bất cứ nền văn minh nào, hành tinh nào, bất kể khối lượng hay vị trí ra sao, ở bất kỳ đâu trong vũ trụ, đều biết.”
John nhìn quanh.
“Tốc độ ánh sáng. Chính là hằng số của vũ trụ. Tốc độ ánh sáng không bao giờ thay đổi, bất kể cô ở đâu.”
“Đúng…”
“Con số đầu tiên, 27.624, là khoảng cách từ Trái đất đến trung tâm thiên hà của chúng ta, tính theo năm ánh sáng.”
“Khoảng cách đó có thể áp dụng cho cả tá hành tinh…”
“Con số thứ hai, 0,00001496, là khoảng cách chính xác từ Trái đất đến mặt trời, tính theo năm ánh sáng.”
John nhìn chằm chằm về phía trước hồi lâu, rồi gạt cái chai và ly rượu đã vơi một nửa sang bên. Anh ta tập trung hoàn toàn vào Mary. “Đây là tấm vé của chúng ta.”
Mary nhíu lông mày.
John ngả người ra ghế. “Ta sẽ bán nó.”
“Để làm gì? Tôi tưởng các siêu thị đã đóng cửa rồi.”
“À thì, tôi nghĩ hệ thống trao đổi hàng vẫn được áp dụng. Chúng ta yêu cầu sự bảo vệ, thức ăn ngon, và bất cứ thứ gì ta muốn.”
“Đây là khám phá vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại. Ta sẽ không bán nó.”
“Đây là khám phá vì đại nhất trong lịch sử nhân loại… vào thời điểm tuyệt vọng nhất. Đây là dấu hiệu hy vọng. Một trò tiêu khiển. Đừng ngốc thế, Mare.”
“Đừng gọi tôi là Mare.”
“Hồi dịch bệnh bùng phát, cô rút lui về đây bởi vì cô muốn làm việc mình thích trong lúc chờ thời đến. Còn tôi, tôi đến đây bởi tôi biết đây là kho trữ rượu lớn nhất trong phạm vi đi bộ, và tôi còn biết cô sẽ đến đây. Phải, tôi đã phải lòng cô ngay từ lúc tôi đặt chân đến San Juan.” Anh ta giơ hai tay lên ngăn lại trước khi Mary kịp nói gì đó. “Đó không phải ý của tôi. Ý tôi là thế giới như cô vẫn biết đã chấm dứt. Con người chìm vào tuyệt vọng. Họ hành động vì lợi ích cá nhân. Với tôi là tình dục và rượu. Với những kẻ cô sắp liên lạc thì là bảo toàn quyền lực. Cô đang trao cho họ phương tiện để làm điều đó: hy vọng. Khi cô xong việc, họ sẽ không cần cô nữa. Đây không còn là thế giới mà cô nhớ. Thế giới này sẽ vùi dập cô tơi tả, Mare ạ.”
“Ta sẽ không bán.”
“Cô là đồ ngốc. Thế giới này sẽ diệt hết đám chủ nghĩa duy tâm.”
Đằng sau cô, máy tính phát ra tiếng bíp. Phân tích đã hoàn tất.
Trước khi cô kịp đọc kết quả, một tiếng động từ phía bên kia tòa nhà vọng qua hành lang bên ngoài văn phòng. Ai đó đang đập cửa? Mary và John nhìn nhau. Họ chờ đợi.
Tiếng đập cửa vang to hơn, kết thúc bằng âm thanh của kính vỡ văng khắp mặt sàn.
Những tiếng bước chân chậm rãi đi tới.
Mary tiến về phía cửa văn phòng, nhưng John đã nắm lấy cánh tay cô. “Ở nguyên đây,” anh ta thì thào.
Anh ta nhặt một cây gậy bóng chày anh ta đã mang theo trong đợt dịch bùng phát. “Khóa cửa này lại. Nếu bọn chúng ở đây tức là đảo đã cạn thức ăn.”
Mary giơ tay với điện thoại. Cô biết giờ mình cần gọi cho ai. Hai tay cô run rẩy khi ấn số gọi người duy nhất cứu được họ: chồng cũ của cô.
—
PHẦN I TRỖI DẬY VÀ SUY TÀN
CHƯƠNG 1
Tàu Alpha Lander
Hơn 360 mét dưới mực nước biển
Ngoài khơi bờ biển Bắc Maroc
David Vale phát ngán với việc đi đi lại lại trong căn phòng ngủ nhỏ xíu, tự hỏi liệu Kate có trở về không, hay khi nào Kate mới trở lại. Anh liếc nhìn chiếc gối dính máu. Cái vũng mười ngày trước chỉ là vài giọt giờ chảy lênh láng từ gối của cô xuống giường.
“Em ổn,” Kate nói vào mỗi buổi sáng.
“Mỗi ngày em đều đi đâu thế?”
“Chỉ là em cần chút thời gian. Và không gian riêng.”
“Thời gian và không gian để làm gì?” David gặng hỏi.
“Để khỏe lên.”
Nhưng cô không khỏe lên. Mỗi ngày khi trở về, tình trạng của Kate lại tệ đi. Những cơn ác mộng, mồ hôi và những lần đổ máu cam mà David tưởng chừng như không cầm nổi mỗi đêm ngày càng dữ dội. Anh đã ôm lấy cô, kiên trì, chờ đợi, hy vọng người phụ nữ từng cứu mạng anh cũng là người anh từng cứu hai tuần trước, sẽ xoay chuyển tình thế và vượt qua được. Nhưng càng ngày cô càng lặng lẽ mỗi lần rời đi. Và giờ cô còn về muộn. Trước đây cô chưa bao giờ về muộn.
Anh kiểm tra đồng hồ. Muộn ba tiếng.
Cô có thể đang ở bất cứ đâu trên con tàu Atlantis khổng lồ rộng sáu mươi dặm vuông, và bị chôn vùi ngay ngoài khơi bờ biển miền núi phía Bắc Maroc, đối diện với Gibraltar.
David đã dành cả mười bốn ngày Kate vắng mặt để học cách vận hành các hệ thống của con tàu. Anh vẫn còn đang tiếp tục học. Kate đã kích hoạt lộ trình ra lệnh bằng giọng nói để hỗ trợ bất kỳ lệnh nào David chưa nắm được.
“Alpha, vị trí của bác sĩ Warner ở đâu?” Anh hỏi.
Giọng máy tính quái gở của tàu Alpha Lander vọng trong căn phòng nhỏ. “Thông tin tuyệt mật.”
“Tại sao?”
“Anh không phải thành viên cấp cao của ban nghiên cứu.”
Có vẻ các hệ thống máy tính của tàu Atlantis không tránh khỏi việc tuyên bố những thứ rõ ràng. David ngồi trên giường, ngay bên cạnh vết máu. Thứ tự ưu tiên là gì? Tôi cần biết liệu cô ấy có ổn không? Một ý nghĩ lóe lên trong đầu anh.
“Alpha, có thể cho tôi xem các dấu hiệu sinh tồn của bác sĩ Warner?”
Một bảng điều khiển trên vách ngăn đối diện chiếc giường nhỏ sáng lên, David vội đọc các con số và biểu đồ – những thông tin anh có thể hiểu.
Huyết áp: 92/47
Mạch: 31
Cô ấy bị thương. Hoặc tệ hơn – đang hấp hối. Có chuyện gì với cô ấy vậy?
“Alpha, tại sao các dấu hiệu sinh tồn của bác sĩ Warner lại bất thường?”
“Thông tin tu…”
“Tuyệt mật.” David đá chiếc ghế sát vào bàn.
“Như thế có làm anh ngừng thắc mắc không?” Alpha hỏi.
“Hoàn toàn không.”
David bước lên cánh cửa đôi, cửa rít lên rồi bật mở. Anh ngừng bước, nắm lấy vũ khí đeo bên sườn. Chỉ để phòng bất trắc.
David bước dọc theo những hành lang le lói sáng được chừng mười phút thì chợt nghe thấy cử động của một hình thù trong bóng tối. Anh dừng lại và chờ đợi, ước rằng mắt sẽ thích nghi với ánh sáng yếu ớt ở sàn và trần. Có thể người Atlantis nhìn được trong điều kiện ánh sáng yếu hoặc có lẽ con tàu – hay phần tàu họ đang chiếm cứ – đang được vận hành ở chế độ tiết kiệm năng lượng. Dù ra sao thì nó cũng khiến con tàu ngoài hành tinh trông càng bí ẩn.
Một bóng người bước ra khỏi bóng tối.
Milo.
David kinh ngạc thấy cậu thiếu niên người Tây Tạng ở sâu trong con tàu đến thế. Milo là người duy nhất ở chung với Kate và David trên con tàu này, nhưng hầu hết thời gian cậu ở bên ngoài. Cậu ngủ ngay bên ngoài đường hầm dẫn từ con tàu bị chôn vùi tới đỉnh núi, nơi những người Berber để lại thức ăn cho họ. Milo thích ngủ dưới trời sao và ngắm mặt trời lên. David thường thấy cậu ngồi khoanh chân thiền khi anh và Kate đến dùng bữa tối cùng cậu hằng đêm. Milo chính là người khích lệ tinh thần cho họ suốt hai tuần qua, nhưng qua ánh sáng lờ mờ, David chỉ thấy nét lo âu hiển hiện trên khuôn mặt chàng trai trẻ.
“Em không thấy chị ấy,” Milo nói.
“Gọi anh qua bộ đàm của tàu nếu em thấy cô ấy nhé.” David tiếp tục sải bước nhanh.
Milo tụt lại sau anh, bèn tăng tốc để theo kịp. Thân hình vạm vỡ và chiều cao mét chín của David làm cho Milo, thấp hơn cả mấy chục phân, trông như một chú lùn. Bên nhau, họ trông như một người khổng lồ và anh bạn đồng hành trẻ tuổi đang băng qua mê cung tăm tối.
“Em sẽ không làm thế đâu,” Milo hổn hển.
David lườm cậu ta.
“Em sẽ đi cùng anh.”
“Em nên quay lên nóc.”
“Anh biết em không thể mà,” Milo đáp.
“Cô ấy sẽ giận đấy.”
“Em không quan tâm, miễn chị ấy an toàn.”
Anh cũng thế, David thầm nghĩ. Họ im lặng bước đi, thanh âm duy nhất là tiếng đôi bốt của David nện thành nhịp trên nền kim loại, theo sau là tiếng bước chân nhẹ nhàng hơn của Milo.
David ngừng bước trước một cánh cửa đôi đồ sộ và kích hoạt bảng điều khiển trên tường. Màn hình hiển thị dòng chữ:
Khoang Y tế Phụ 12
Đó là khoang y tế duy nhất thuộc phần tàu họ đang ở, phỏng đoán khả dĩ nhất của David về nơi Kate đến mỗi ngày.
Anh đưa tay vào sâu trong đám mây ánh sáng xanh lục phát ra từ bảng điều khiển trên tường, gõ ngón tay vài giây và cánh cửa rít lên khi bật mở.
David nhanh chóng băng qua căn phòng.
Có bốn bàn y tế ở chính giữa. Những màn hình ba chiều trên tường choán hết bề dài phòng – căn phòng trống không. Có thể cô ấy đã đi rồi?
“Alpha, cho tôi biết lần cuối cùng khoang này được sử dụng?”
“Khoang này được sử dụng lần cuối vào ngày thực hiện nhiệm vụ, 9.12.38.28, ngày tiêu chuẩn 12.39.12.47.29…”
David lắc đầu. “Là cách đây bao nhiêu ngày địa phương?”
“Chín triệu, một trăm hai mươi tám ngàn…”
“Thôi, được rồi. Liệu có còn khoang y tế nào khác trong khu vực này của tàu không?”
“Vô hiệu.”
Cô ấy đi đâu được chứ? Rất có thể còn cách khác để truy vết.
“Alpha, có thể cho tôi xem khu nào của tàu đang tiêu thụ nhiều năng lượng nhất không?”
Một màn hình trên tường sáng lên và mô hình ba chiều của con tàu hiển thị. Ba phân khu sáng: Phòng vòm 1701-D, Khoang Y tế Phụ 12 và Phòng thí nghiệm Nghiên cứu Thích nghi 47.
“Alpha, Phòng thí nghiệm Nghiên cứu Thích nghi 47 là gì?”
“Một Phòng thí nghiệm Nghiên cứu Thích nghi có thể được thiết lập cho hàng loạt những thí nghiệm sinh học và nhiều thí nghiệm khác nữa.”
“Phòng thí nghiệm Nghiên cứu Thích nghi 47 hiện tại được thiết lập như thế nào?” David căng thẳng chờ câu trả lời.
“Thông tin đó tu…”
“Tuyệt mật,” David lầm bầm. “Phải rồi…”
Milo chìa ra một thanh protein. “Cho cuốc dạo bộ của chúng ta.”
David dẫn Milo trở lại hành lang, tại đây anh xé lớp giấy gói, cắn một miếng lớn của thanh màu nâu và nhai trong im lặng. Dường như nó cũng giúp giải tỏa nỗi thất vọng.
David khựng lại ở hành lang, còn Milo suýt đâm sầm vào lưng anh.
David ngồi xổm kiểm tra gì đó trên sàn.
“Gì vậy ạ?” Milo hỏi.
“Máu.”
Sau đó David bước nhanh hơn và máu trên sàn từ vài giọt giờ đã thành vệt dài.
Tại cánh cửa đôi dẫn vào Phòng Nghiên cứu Thích nghi 47, David lần mò ngón tay dưới ánh sáng xanh của bảng điều khiển trên tường. Anh nhập lệnh mở sáu lần, mỗi lần màn hình hiển thị lại nhấp nháy đoạn thông báo y hệt:
Không đủ quyền truy cập
“Alpha! Sao tôi không mở được cửa này?”
“Anh không đủ quyền truy cập…”
“Vậy làm thế nào vào được bên trong?”
“Anh không thể.” Giọng đứt khoát của Alpha vang khắp hành lang.
David và Milo đứng ngây ra một lúc.
David nói khẽ. “Alpha, cho tôi xem dấu hiệu sinh tồn của bác sĩ Warner.”
Màn hình hiển thị thay đổi, các con số và biểu đồ xuất hiện:
Huyết áp: 87/43
Mạch: 30
Milo quay sang David.
“Đang giảm,” David nói.
“Tính sao giờ?”
“Đợi thôi.”
Milo ngồi khoanh chân và nhắm mắt. David biết cậu đang cố tìm cảm giác tĩnh tại. Và trong khoảnh khắc ấy, David chỉ mong anh cũng có thể làm y hệt, có thể gạt bỏ mọi thứ khỏi tâm trí. Nỗi sợ hãi che mờ những suy nghĩ của anh. Anh tuyệt vọng muốn cánh cửa đó mở ra, nhưng anh cũng sợ điều đó, sợ sẽ phát hiện ra chuyện gì đã xảy ra với Kate, cô đang tiến hành thí nghiệm gì, cô đang làm gì với bản thân mình.
David suýt nữa ngủ thiếp đi khi chuông báo động kêu. Giọng Alpha vang như sấm dậy suốt hành lang chật hẹp.
“Đối tượng cấp cứu y tế. Tình trạng nguy cấp. Thực hiện quyền truy cập vượt quyền.”
Cánh cửa đôi rộng dẫn vào phòng thí nghiệm trượt mở.
David vội chạy vào, vừa dụi mắt, cố hiểu điều anh vừa nhìn thấy.
Đằng sau anh, tiếng Milo cất lên trong kinh ngạc, “Ôi trời.”
—-
CHƯƠNG 2
Tàu Alpha Lander
116 mét dưới mực nước biển
Ngoài khơi bờ biển Bắc Maroc
“Gì đây ạ?” Milo hỏi.
David nhìn lướt một lượt khắp phòng thí nghiệm nghiên cứu. “Anh không biết.”
Căn phòng rộng thênh thang, dài ít nhất 30 mét, cao 15 mét, nhưng không giống một kén y tế, trong phòng không có bàn. Thực tế, trên sàn chỉ có hai bể chứa thủy tinh khổng lồ, đường kính ít nhất 3 mét. Ánh sáng vàng rực rỡ bên trong, các phần tử trắng lấp lánh trôi từ đáy lên miệng bể. Bể bên phải trống không, bể còn lại nhốt Kate.
Cô lơ lửng cách đáy bể vài thước, hai cánh tay duỗi thẳng. Cô vẫn mặc bộ quần áo đơn giản cô đã mặc khi rời phòng ngủ của họ sáng nay, nhưng có thêm một món mới: chiếc mũ bảo hộ bạc. Chiếc mũ che hoàn toàn khuôn mặt cô, kín cả dưới cằm. Mái tóc nâu mới nhuộm xõa xuống vai. Phần kính che màu đen che hết mắt cô, che luôn mọi manh mối có thể tiết lộ chuyện gì đang xảy ra với cô. Manh mối duy nhất là dòng máu chảy từ mũ xuống cổ và làm xỉn màu chiếc áo phông xám. Vệt máu dường như lan rộng ra từng giây.
“Alpha, chuyện… gì đang diễn ra ở đây?” David hỏi.
“Yêu cầu cụ thể hơn.”
“Cái… thí nghiệm này là gì? Quy trình?”
“Mô phỏng ký ức hồi sinh.”
Điều đó nghĩa là gì? Chính mô phỏng này khiến cô ấy bị thương chăng?
“Làm sao tôi có thể ngăn chặn nó?”
“Anh không thể.”
“Tại sao không?” David bắt đầu sốt ruột.
“Gián đoạn một quy trình ký ức hồi sinh sẽ hủy diệt đối tượng.”
Milo quay sang David, vẻ sợ hãi ánh lên trong đôi mắt cậu.
David dò tìm quanh phòng. Làm gì bây giờ? Anh cần vài manh mối, cần biết nên bắt đầu từ đâu. Anh ngửa đầu ra sau, cố suy nghĩ. Trên trần, một vòm mái nhỏ bằng kính đen trừng trừng nhìn xuống anh.
“Alpha, có hệ thống video ghi từ xa của phòng thí nghiệm này chứ?”
“Có.”
“Bắt đầu phát lại.”
“Chỉ định phạm vi ngày.”
“Bắt đầu từ lúc bác sĩ Warner bước vào hôm nay.”
Một làn sóng ánh sáng phát ra từ bức tường bên trái, từ từ tạo thành một hình ảnh ba chiều của phòng thí nghiệm. Hai bể chứa trống không. Cánh cửa đôi trượt mở và Kate sải bước đi vào. Cô tiến tới bức tường bên phải, bức tường sáng lên và một loạt các màn hình bắt đầu nhấp nháy đầy những văn bản và ký tự mà David không thể luận nổi. Kate đứng im, khẽ đảo mắt sang trái rồi sang phải, vừa đọc vừa kéo các màn hình, dừng lại trước mỗi màn hình chỉ vài giây.
“Ngầu quá,” Milo thì thào.
David lùi lại một bước. Trong khoảnh khắc đó, anh nhận ra phần nào về những gì Kate đã trở thành, ngăn cách ngày càng lớn của sức mạnh tâm trí tồn tại giữa cô và anh.
Hai tuần trước, Kate đã tìm ra phương pháp chữa trị Dịch bệnh Atlantis, một dịch bệnh toàn cầu đã cướp đi mạng sống của hàng tỷ người trong đợt bùng phát đầu tiên và thêm vô số sinh mạng trong lần đột biến cuối cùng. Dịch bệnh đã chia cắt thế giới. Tỷ lệ sống sốt vốn đã thấp, những người này còn bị biến đổi ở cấp độ gene. Một số người hưởng lợi từ dịch bệnh – họ trở nên mạnh khỏe và thông minh hơn. Phần còn lại bị hủy hoại, lui về một dạng sinh tồn nguyên thủy. Dân số thế giới quay cuồng quanh hai phe đối nghịch: Liên minh Phong Lan, phe tìm cách trì hoãn và trị dứt điểm dịch bệnh, và Immari International, phe nới lỏng cho dịch bệnh bùng phát và ủng hộ để mặc biến đổi gene phát triển. Kate, David, cùng một nhóm nhỏ binh lính và nhà khoa học đã ngăn chặn được dịch bệnh và kế hoạch của Immari bằng cách cô lập các phần nhỏ của phương pháp chữa trị: virus sao chép ngược nội sinh do những can thiệp của người Atlantis để lại trong lịch sử tiến hóa của nhân loại. Các virus sao chép ngược này cơ bản chính là những hóa thạch virus, mẩu vụn gene từ các trường hợp người Atlantis từng điều chỉnh bộ gene người.
Trong những giờ cuối cùng của dịch bệnh với hàng triệu người chết mỗi phút, Kate đã tìm ra được một cách dung hòa tất cả hóa thạch virus ấy và xử lý dịch bệnh. Liệu pháp của cô đã tạo ra một bộ gene lai người – Atlantis hợp nhất, ổn định, nhưng cô cũng phải trả một cái giá đắt cho bước đột phá này.
Kiến thức đó đến từ những ký ức bị nén chặt trong tiềm thức của Kate – những ký ức của một trong hai nhà khoa học Atlantis từng tiến hành các thí nghiệm gene trên người xuyên suốt tiến trình hàng nghìn năm. Những ký ức Atlantis có thể giúp cô đối phó với dịch bệnh, nhưng chúng cũng lấy đi phần nhân tính của riêng cô – phần khác biệt vốn chỉ của riêng Kate mà không phải nhà khoa học Atlantis. Khi đồng hồ điểm và dịch bệnh lan ra toàn cầu, Kate đã chọn giữ kiến thức về người Atlantis và tìm phương thuốc điều trị bệnh dịch thay vì giải thoát bản thân khỏi những ký ức và bảo vệ bản thể của riêng mình.
Cô đã nói với David rằng cô tin mình có thể khắc phục thiệt hại mà những ký ức Atlantis gây ra, nhưng càng ngày David càng thấy rõ các thí nghiệm của Kate không hiệu quả. Cô ngày càng ốm yếu, và nhất định không chịu nói về tình trạng của bản thân với anh. Anh cảm giác cô ngày càng xa cách, và giờ, khi xem đoạn băng phát lại này và thấy Kate đọc nhiều màn hình cùng lúc, anh biết mình đã đánh giá thấp mức độ thay đổi mạnh mẽ nơi cô.
“Chị ấy đọc nhanh thế sao?” Milo hỏi.
“Còn hơn thế. Anh nghĩ cô ấy học cũng nhanh không kém đâu,” David thì thào.
David cảm thấy nỗi sợ hãi khác dâng lên trong anh. Có phải vì Kate đã thay đổi quá nhiều hay bởi anh nhận ra mình đang làm nghiêm trọng hóa mọi chuyện?
Hãy bắt đầu từ những thứ đơn giản, anh tự nhủ.
“Alpha, bác sĩ Warner vận hành ngươi như thế nào khi không cần đầu vào bằng giọng nói hoặc cảm ứng?”
“Bác sĩ Warner tiếp nhận cấy ghép thần kinh cách đây chín ngày theo giờ địa phương.”
“Tiếp nhận? Bằng cách nào?”
“Bác sĩ Warner lên chương trình để tôi tiến hành phẫu thuật cấy ghép.”
Lại thêm một thứ nữa đã không xuất hiện trong cuộc thảo luận Em yêu, hôm nay em bận làm gì vậy hằng đêm của họ.
Milo liếc nhìn David, khẽ nở nụ cười trên môi. “Em cũng muốn phẫu thuật kiểu thế.”
“Tính cả anh nữa,” David tập trung vào cảnh quay ba chiều. “Alpha, tăng tốc độ phát.”
“Khoảng thời gian?”
“Năm phút trên giây.”
Màn hình toàn văn bản nhấp nháy biến thành những đợt sóng liên tục, giống như làn nước trắng xóa táp vào một bể cả đen sì. Kate không nhúc nhích.
Vài giây trôi qua, màn hình tắt và Kate đang lơ lửng trong chiếc bể chứa ánh vàng lấp lánh.
“Dừng lại,” David ra lệnh. “Tua lại viễn trắc ngay trước khi bác sĩ Warner bước vào cái… vòng tròn… mặc xác nó là gì.”
David nín thở theo dõi. Màn hình kèm văn bản hiện ra, và Kate đi về phía cuối căn phòng, ngay cạnh hai bể chứa. Một bức tường trượt mở, cô vớ lấy cái mũ bảo hộ màu bạc rồi bước tới bể chứa vừa mở. Cô bước vào trong rồi đội mũ, và sau khi bể chứa thủy tinh bít kín lại, cô nổi lên khỏi đáy.
“Alpha, tiếp tục tăng tốc độ phát.”
Căn phòng không có gì thay đổi với một ngoại lệ duy nhất: máu từ từ chảy ra từ mũ của Kate.
Trong giây cuối cùng, David và Milo bước vào, bốn từ lóe sáng trên màn hình:
Kết thúc viễn trắc
Milo quay sang David. “Giờ tính sao?”
David liếc nhìn màn hình và cái bể chứa Kate. Rồi lại nhìn chằm chằm cái bể rỗng.
“Alpha, tôi có thể tham gia thí nghiệm… của Tiến sĩ Warner không?”
Tấm pa nô cuối căn phòng trượt mở để lộ ra một chiếc mũ bảo hộ bạc.
Mắt Milo mở lớn. “Đây không phải ý hay đâu, anh David.”
“Em có ý tưởng nào khá hơn không?”
“Anh không phải làm đến mức này đâu.”
“Em biết anh phải làm thế mà.”
Bể chứa xoay vòng tách mở lớp thủy tinh. David bước vào, đội mũ lên, và phòng thí nghiệm nghiên cứu biến mất.
Sách bị ngưng chia sẻ vì lý do Bản Quyền