Cuốn sách “Bóng Ma Ở Lexington” mở đầu bằng một câu chuyện có thật, diễn ra vài năm trước khi tác giả bắt đầu viết. Câu chuyện này liên quan đến những người bạn và những sự kiện gặp gỡ đầy bí ẩn.
Tác giả kể về thời gian anh sống tại Cambridge, Massachusetts, và quen biết một kiến trúc sư tên là Casey. Casey là một người đàn ông trung niên, có ngoại hình điển trai, thích thú với bơi lội và quần vợt. Anh sống một mình ở một ngôi nhà cổ ở Lexington, ngoại ô của Boston, cùng với một người bạn tên là Jeremy, người làm nghề chỉnh dây đàn dương cầm.
Nhà của Casey ở Lexington là một ngôi nhà cổ lớn ba tầng, đã tồn tại từ hơn một thế kỷ. Từ bên ngoài, ngôi nhà này rất ấn tượng và thu hút sự chú ý của mọi người. Điều đặc biệt là ngôi nhà này nằm giữa khu dân cư cao cấp, tạo ra một bức tranh đẹp mắt và lạ mắt.
Một buổi tối đầu tiên khi tác giả đến thăm nhà Casey, đã diễn ra một buổi tiệc kỳ dị trong phòng khách của ngôi nhà. Tuy nhiên, sau đó không có sự kiện đặc biệt nào xảy ra nữa, và các đêm tiếp theo đều yên tĩnh và bình thường. Dù vậy, tác giả thường tỉnh giấc vào khoảng giữa đêm, có thể vì cảm giác lạ lẫm khi ngủ ở nhà của người khác hoặc vì mong đợi một sự kiện kỳ diệu như buổi tiệc đầu tiên một lần nữa.
Mời các bạn đón đọc cuốn sách Bóng Ma Ở Lexington của tác giả Haruki Murukami
—
Bóng ma ở Lexington
Đấy là chuyện đã thật sự xảy ra, vài năm trước đây. Có chút sự tình nên xin đổi tên nhân vật mà thôi, ngoài ra, tất cả đều là chuyện thật.
Tôi đã có thời sống hai năm ở Cambridge thuộc bang Massachusett. Lúc ấy, đã quen biết một kiến trúc sư. Một người đàn ông vừa qua tuổi 50, đẹp trai, tóc đã trắng gần một nửa. Không cao lắm. Thích bơi lội, đến hồ bơi mỗi ngày, thân thể săn chắc.
Thỉnh thoảng còn chơi quần vợt. Xin tạm gọi tên là Casey. Độc thân, sống ở ngoại vi thành phố Boston, trong một toà nhà cổ ở vùng Lexington, chung với một tay chỉnh dây đàn dương cầm, có sắc mặt không được hồng hào mấy, tên là Jeremy, có lẽ khoảng giữa tuổi 30, cao, gầy như thân cây liễu, tóc đã thưa dần rồi. Jeremy không chỉ chỉnh dây đàn, mà còn đàn dương cầm rất điêu luyện nữa.
Thời ấy, tôi đã có vài truyện ngắn dịch ra tiếng Anh đăng trên tạp chí ở Mỹ.
Casey đọc các truyện dịch ấy mới viết thư cho tôi qua ban biên tập tạp chí. “Rất hứng thú về các tác phẩm và thân thế của ông. Nếu có thể, rất mong được gặp và nói chuyện với ông”. Thường thì tôi không gặp người ta theo cách như thế, kinh nghiệm cho thấy là chẳng vui thích gì, nhưng tôi lại nghĩ thử gặp ông Casey này cũng được. Một phần cũng vì thư ông ta rất trí thức, và đầy cảm giác hóm hỉnh. Phần khác là sự dễ dãi vì tôi đang sống ở nước ngoài. Chỗ tôi ở tình cờ cũng gần chỗ của ông ta. Nhưng thật ra những sự tình như thế chỉ là những lý do bên lề mà thôi. Nói gì đi nữa, lý do quan trọng nhất để tôi quan tâm đến cá nhân của nhân vật tên là Casey này, chính là bộ sưu tập đĩa nhạc Jazz cũ, có vẻ phong phú của ông ta.
“Có lẽ tìm khắp nước Mỹ này cũng không đâu ra một bộ sưu tập nào được như
thế này. Nghe nói ông thích bạc Jazz nên có thể ông quan tâm đến bộ sưu tập của tôi”.
Ông ta viết như thế. Ông ta không sai. Quả thật tôi rất quan tâm. Đọc xong bức thư ấy, tôi đâm ra nao nức muốn được thấy bộ sưu tập của ông ta, đến không sao chịu nổi. Hễ dính đến chuyện sưu tập đĩa nhạc Jazz cũ là tôi mất sức đề-kháng tinh thần ngay, cứ như là ngựa bị mê hoặc bởi một thứ mùi của loài cây đặc biệt gì đấy.
Nhà của Casey ở vùng Lexington. Cách nhà tôi ở Cambridge chừng 30 phút xe hơi. Tôi điện thoại hỏi đường thì ông ta gửi Fax có bản đồ chỉ dẫn đường đi cặn kẽ cho tôi. Một buổi chiều tháng Tư, tôi lên xe Volkswagen màu lục, một mình lái đến nhà ông. Và nhận ra nhà ấy ngay.
Một căn nhà cổ to lớn, ba tầng. Có lẽ ít nhất cũng đã 100 tuổi rồi. Hùng cứ một góc truyền thuyết ngay trong khu nhà cao cấp ở ngoại vi thành phố Boston, san sát những ngôi nhà tráng lệ đoan trang này, đây là một toà nhà cổ hùng-đại đặc biệt lôi cuốn mắt người ta. Xứng đáng đăng hình lên bưu thiếp nữa.
Vườn rộng cứ như là một khu rừng lớn thấy có bốn con chim giẻ đang chuyền từ cành này sang cành kia, vừa kêu lên những tiếng sắc nhọn chói tai.
Trên đường vào nhà có chiếc xe BMW mới. Tôi vừa đậu xe ngay sau chiếc BMW thì con chó giống mastiff to lớn đang nằm dài trên tấm thảm chùi giày trước cửa nhà, chậm rãi nhỏm dậy, uể oải sủa 2, 3 tiếng như làm cho xong nhiệm vụ. Ra vẻ “chẳng phải muốn sủa gì đâu, chỉ là làm theo lệ đã đặt ra thế thôi”.
Casey bước ra bắt tay tôi. Cái bắt tay chặt chẽ như muốn xác định điều gì. Vừa bắt tay, bàn tay kia vừa vỗ tưng tưng lên vai tôi. Thói quen của Casey đấy. – “A, thế mà cũng chịu khó đến chơi đấy. Gặp được anh tôi mừng lắm”. Ông nói. Casey mặc áo sơ mi trắng kiểu Ý rất thời trang, nút áo khép đến tận trên cùng, quần vải mềm, áo khoác ca sơ mía màu trà nhạt. Mắt kính nhỏ kiểu Giorgio Armani. Trông rất là trang nhã.
Casey đưa tôi vào trong nhà, mời ngồi trên ghế dài phòng tiếp khách, và mời tôi tách cà phê mới pha thật ngon.
Casey là người có vẻ phóng khoáng, nề nếp và văn hóa cao. Thời trẻ đã du hành khắp nơi trên thế giới nên nói chuyện rất hoạt bác. Tôi dần dần chơi thân với ông, tháng nào cũng đến nhà thăm ông. Và được hưởng ân huệ của bộ sưu tập đĩa nhạc quý giá ấy nữa. Đến chơi nhà ấy thì tha hồ nghe thỏa thích. Giàn âm hưởng của ông tuy so với bộ sưu tập ấy thì không xứng, nhưng cũng là loại máy khuếch âm to lớn dùng bóng đèn chân không cổ điển nên tiếng nghe ấm và gợi nhớ thời xưa củ.
Casey dùng phòng đọc sách trong nhà làm phòng làm việc, đặt một bộ máy tính lớn dùng cho việc thiết kế kiến trúc. Nhưng với tôi, ông hầu như chẳng nói gì về việc làm cả. – “Chẳng phải là công việc gì đặc biệt.” Ông vừa cười vừa nói như phân bua với tôi. Tôi không hiểu ông làm việc thiết kế kiến trúc gì. Mà cũng chưa hề thấy ông bận bịu công việc. Casey, theo như tôi biết lúc nào cũng ngồi ở ghế dài phòng khách, phong nhã cầm ly rượu vang, đọc sách, hay lắng nghe Jeremy đàn dương cầm, hoặc là ngồi ở ghế trong vườn, đùa với con chó. Chỉ là cảm nhận riêng của tôi thôi, nhưng Casey không có vẻ gì là cần mẫn trong công việc cả. Thân phụ của Casey đã là một bác sĩ phân tâm nổi tiếng toàn quốc, đã viết 5, 6 cuốn sách chuyên khoa, đến nay đã thành những tác phẩm cổ điển trong ngành. Lại là người mê say nhạc Jazz cuồng nhiệt, bạn thân của Bob Weinstock, nhà sản xuất và cũng là người sáng lập công ty đĩa nhạc Prestige Records. Cũng vì thế mà bộ sưu tập đĩa nhạc Jazz của ông, từ thập niên 1940 đến thập niên 1960 đúng như trong thư của Casey, quả là hoàn bích đến làm người ta le lưỡi thán phục. Số lượng đĩa nhạc đã đáng nể rồi, mà phẩm chất lại tuyệt vời đến không còn chỗ chê. Phần lớn các đĩa nhạc là bản nguyên thủy trong kỳ phát hành đầu tiên, được chăm sóc kỹ để giữ tình trạng tốt. Không một vết trầy nên một đĩa, không một vết xước trên bao đĩa. Toàn vẹn đến gần như là phép lạ. Chách gìn giữ cẩn trọng, từng đĩa một được nâng niu như tắm cho trẻ sơ sinh.
Casey không có anh chị em nào, thuở nhỏ đã mồ côi mẹ. Thân phụ đã không tái hôn. Thế nên năm Casey 15 tuổi, bố mất vì ung thư tuy tạng, thì toàn bộ tài sản, nhà cửa, cùng với bộ sưu tập đĩa nhạc quý giá đã trở thành của riêng ông. Casey thương kính bố hơn ai hết nên đã giữ kỹ nguyên vẹn bộ đĩa nhạc không suy chuyển một đĩa nào. Tuy cũng thích nghe đĩa nhạc Jazz, nhưng không đến mức cuồng nhiệt như bố.
Casey ưa thích nhạc cổ điền hơn, hễ có buổi hòa nhạc nào của giàn nhạc giao hưởng Boston với nhạc trưởng Ozawa là thế nào cũng rủ Jeremy đi nghe.
Sau khoảng nửa năm chơi thân với nhau như thế, tôi được Casey nhờ trông nhà hộ. Chuyện bất thường đối với Casey là ông vì công việc mà phải đi London khoảng một tuần. Thường thì khi nào ông đi xa vẫn có Jeremy trông nhà nhưng lần này không được thế. Đúng lúc mẹ của Jeremy, ở West Virginia bị bệnh nặng, Jeremy đã về thăm trước đấy một vài ngày rồi. Thế nên Casey đã điện thoại lại tôi.
“Xin anh hiểu cho, tôi chỉ còn nghĩ ra được có anh để nhờ thôi. Mà nói là trông nhà hộ cho, chứ thật ra, chỉ cần ngày hai lần cho con chó Miles ăn hộ tôi là đủ rồi. Mà đĩa nhạc thì nghe bao nhiêu cũng được. Rượu và thức ăn cũng đã chuẩn bị đầy đủ, cứ dùng tự nhiên đừng làm khách gì cả là được”.
Đề nghị kiểu ấy thì nghe cũng được. Đúng vào lúc tôi có chút sự tình nên phải sống một mình, mà bên cạnh căn phòng trọ tôi thuê ở Cambridge, người ta đang tân trang lại nhà cửa ngày nào cũng ồn ào không chịu nổi. Thế là tôi mang vài bộ quần áo, máy tính Macintosh Power Book và vài cuốn sách, đến nhà Casey khoảng sau trưa thứ Sáu. Nhằm lúc Casey vừa sấp xếp hành lý xong, định gọi tai đến. Tôi chúc ông đi London vui vẻ.
“Vâng hẳn nhiên thế”. Casey tươi cười nói – “Anh ở nhà tha hồ nghe nhạc nhé. Nhà có đủ tiện nghi cho anh đấy.”
Sau khi tiễn Casey đi xong, tôi vào bếp làm cà phê uống. Rồi vào tròng nghe nhạc bên cạnh phòng khách, đặt máy tính, mở nghe vài đĩa nhạc thân phụ Casey đã để lại, và làm việc khoảng một giờ. Thử xem mình có thể làm việc song suốt được ở đây trong vòng một tuần hay không.
Bàn làm việc là loại bàn kiểu cổ bằng gỗ gụ bề thế, hai bên có ngăn kéo. Có vẻ xưa lắm. Mà đồ đạc trong phòng này ngoại trừ máy tính Macintosh tôi mang đến tất cả đều có vẻ xưa cũ từ thời nào xa xưa đến không còn nhớ ra được, vẫn còn tiếp tục tồn tại ở nguyên vị trí ấy trong phòng. Có vẻ sau khi bố mất, Casey đã đặc biệt giữ nguyên không dời đổi gì trong căn phòng này, cứ như là từ đường, hay phòng gìn giữ di vật thiêng liêng vậy. Ngay cả toàn thể ngôi nhà đã cho cảm giác không dời đổi theo thời gian, mà đặc biệt trong phòng này, thời gian hầu như đã ngưng hẳn lại đâu từ trước rồi.
Tuy vẫn được trông nom cẩn thận. Các giá sách không có chút bụi mặt bàn chùi bóng láng, đẹp đẽ.
Con chó Miles đến nằm sóng sượt dưới chân tôi. Tôi xoa nhẹ đầu nó vài lần.
Con chó rất ưa hơi người. Không chịu chuyện ở một mình lâu được. Chỉ khi ngủ mới chịu nằm trên tấm mền dành sẵn bên cạnh nhà bếp, như đã được dạy, còn thì thế nào cũng tìm đến bên người nào đó tựa sát một phần thân mình vào họ một cách dịu nhẹ không làm họ để ý. Phòng khách và phòng nghe nhạc ngăn cách nhau bởi một bức vách cao không có cửa đóng. Trong phòng khách có lò sưởi lớn xây bầng gạch, và ghế sofa dài bằng da 3 người ngồi rộng rãi. Bốn chiếc ghế có tay dựa hình dạng khác nhau và ba chiếc bàn cà phê cũng khác nhau về hình dạng. Giữa phòng trải một tấm thảm Persia màu sắc trang nhã, trên trần treo một đèn chùm cổ điển có vẻ như hàm chứa một giai thoại gì đấy. Tôi đến ngồi vào ghế dài, xoay người nhìn quanh phòng.
Chiếc đồng hồ đặt trên khung lò sưởi ghi khắc thời gian bằng tiếng “tốc tốc” như tiếng móng tay gõ vào khung cửa sổ.
Sách về mỹ thuật và sách chuyên môn của các ngành, xếp hàng trên giá sách cao dựa vào tường. Vài bức tranh sơn dầu lớn nhỏ vẽ cảnh bãi biển nào đó, treo cạnh nhau. Bức họa phong cảnh nào cũng cho ấn tượng tương tự nhau. Bức nào cũng chẳng có hình dáng người nào, chỉ có phong cảnh bãi biển có vẻ đìu hiu. Tường như kề tai lại gần có thể nghe được tiếng gió lạnh tiếng sóng hoang dại. Chẳng có gì hoa lệ hào nhoáng nhưng tất cả các thứ trong tranh đều toát ra hơi hượm quý tộc từ thời xa xưa không cần che giấu nhưng vẫn giữ tiết-độ kiểu thổ-ngơi New England truyền thống.
Bức tường rộng trong phòng nghe nhạc được dùng làm dãy giá đựng đĩa nhạc cỡ LP xưa cũ sắp hàng tấp nập, theo thứ tự mẫu tự đầu tên của các nhà diễn tấu. Con số chính xác của đám đĩa nhạc này thì chính Casey cũng không rõ. Ông bảo là đâu chừng 6 ngàn hay 7 ngàn đĩa gì đấy. Và còn một số đĩa nhạc tương tự như thế phải xếp vào thùng các tông mà cất vào căn phòng dưới nóc nhà nữa. – “Có ngày, sức nặng của đám đĩa nhạc này sẽ làm căn nhà lún tuốt vào lòng đất không chừng.”
Đặt đĩa nhạc Lee Connitz 10-inch cũ kỹ lên máy quay đĩa, ngồi vào bàn mà viết văn thì cảm thấy thời gian trôi qua êm đềm dịu dàng quanh mình. Khoan khoái như mình được đặt nằm vào một khung hình khít khao vừa vặn với thân thể mình. Cảm nhận được niềm thân mật đặc biệt dành cho mình từ cách chế tạo mọi thứ cẩn thận trân trọng cần nhiều thời gian. Khắp phòng, trong từng góc kín, trong từng chỗ lõm nhỏ trên tường cho đến từng nếp gấp trên màn cửa, dư hưởng của âm nhạc đã thấm đượm vào, thân mật mà khoan khoái.
Đêm đó, tôi đã mở chai rượu vang đỏ Monte Pulciano mà Casey đã dành sẵn cho, róc vào ly pha lê, uống vài ly, và ngồi vào ghế xa lông, thư thả đọc cuốn tiểu thuyết mới xuất bản vừa mua được. Quả là xứng đáng được tay sành điệu như Casey lựa chọn, thứ rượu vang này ngon thật. Tôi lấy phó mát Bree từ tủ lạnh ra, kẹp với bánh bích quy mỏng ăn hết một phần tư. Chung quanh im vắng. Ngoài tiếng đồng hồ “tốc tốc”, chỉ thỉnh thoảng mới có tiếng xe chạy qua trước nhà. Mà đường trước nhà là loại đường cùng, không thông ra đâu cả nên xe vào cũng chỉ là xe hàng xóm, càng về đêm, càng im vắng không nghe tiếng động nào. Từ phòng trọ của tôi ở Cambridge 5 thuộc xóm đông sinh viên, lúc nào cũng ồn ào, dời đến đây, cảm thấy cứ như là mình đang ở dưới đáy biển.
Khi đồng hồ chỉ quá 11 giờ đêm thì như thường lệ, tôi thấy buồn ngủ, nên dẹp sách, cho ly không vào bồn rửa chén trong nhà bếp, rồi bảo con chó Miles đi ngủ. Con chó uể oải vâng lời, ra nằm cuộn người trên tấm mềm cũ, kêu ư ử vài tiếng nhỏ rồi chớp mắt ngái ngủ. Tôi tắt đèn, bước vào phòng ngủ dành cho khách ở tầng trên, thay quần áo, chui vào giường, hầu như ngủ vùi được ngay.
Chợt mở mắt thức giấc, thấy mình đang ở trong khoảng không. Chẳng hiểu là nơi chốn nào. Một hồi lâu, cứ như là rau cải úa héo, chẳng có cảm giác gì cả. Như rau cải bị bỏ quên lâu ngày trong góc tối của ngăn tủ trong bếp. Hồi lâu sau mới nhớ ra được rằng mình đang trông nhà hộ Casey. Đúng rồi, mình đang ở Lexington đây mà.
Sờ soạng tìm được đồng hồ tay đã đặt cạnh gối, bấm nút cho có ánh sáng xanh mà dọc giờ. 1 giờ 15 phút.
Tôi rướn nhẹ thân người trên giường, với tay bật ngọn đèn nhỏ để đọc sách bên giường. Phải mất một lúc mới nhớ ra vị trí của nút bật đèn. ánh sáng màu vàng tỏa ra từ cái chụp đèn thủy tinh chạm trổ hình hoa huệ. Tôi xoa mạnh hai lòng bàn tay lên mặt, hít vào một hơi dài, rồi nhìn quanh căn phòng vừa được chiếu sáng. Hết kiểm điểm bốn bức tường, lại nhìn tấm thảm, rồi nhìn lên trần cao. Nhặt nhạnh từng chút ý thức như đang nhập lên từng hạt đậu vương vãi trên nền nhà, để thân thể mình quen dần với hiện thực. Cuối cùng mới để ý được đến điều ấy. Đến tiếng động. Tiếng lao xao nghe như tiếng sóng vỗ vào bờ. Tiếng động ấy đã lôi tôi ra khỏi giấc ngủ say.
Có người nào đó đang ở tầng dưới!
Tôi nín thở, bước thật êm về phía cửa phòng. Nghe tiếng khô khan của tim mình đập mạnh ngay bên tai. Rõ ràng là trong ngôi nhà này, ngoài tôi ra còn có người khác nữa. Mà không phải chỉ một hay hai người. Nghe cả tiếng gì như âm nhạc nữa.
Tôi không còn hiểu sao cả. Nách tôi đã có vai dòng mồ hôi lạnh chảy xuống. Trong lúc tôi ngủ say, trong nhà này, đã có chuyện gì xảy ra?
Thoạt tiên, tôi chợt nghi hẳn là trò giàn cảnh trêu cợt quy mô gì đây. Casey giả vờ đi Lon don, nhưng thực ra đã chỉ đi đâu gần đây rồi lẻn quay về sắp đặt tiệc vui ban đêm đây chăng? Thế nhưng nghĩ sao đi nữa, Casey cũng chẳng phải là mẫu người ưa dàn dựng trò đùa vô duyên như thế. Óc hài hước của ông ta phải tế nhị, thâm trầm hơn kia.
Hoặc là, tôi tựa người vào cánh cửa mà nghi tiếng có thể là đám bạn của Casey mà tôi chưa được biết. Có lẽ họ biết chuyện Casey đang đi du lịch, lại không biết rằng tôi đến trông nhà họ, nên được dịp mà lên vào nhà phá chơi. Ý trước đúng hay ý sau đúng thì ít nhất cũng chẳng phải là chuyện trộm đạo gì. Kẻ trộm lẻn vào nhất thì đâu cố tình mà nghe nhạc ồn ào như thế.
Tôi bèn thay đồ ngủ ra. mặc quần áo thường, mang giày thể thao, tròng áo len vào trên áo sơ mi. Thế nhưng, cũng phải phòng hờ chuyện vạn nhất chứ. Có thứ gì thủ
sẵn trong tay vẫn hơn. Tôi nhìn quanh phòng nhưng chẳng thấy được thứ gì thích ứng cả. Chẳng có chày baseball, cũng chẳng có que gạt lửa sưởi. Trong phòng chỉ có tủ, giường, kệ sách nhỏ và khung tranh phong cảnh mà thôi.
Ra ngoài hành lang càng nghe tiếng rõ hơn. Tiếng nhạc xưa vui nhộn từ dưới cầu thang dâng lên như hơi nước. Nghe quen như một bản nhạc nổi tiếng nào đấy nhưng không sao nhớ ra nhan đề là gì.
Nghe cả tiếng nói chuyện nữa. Tiếng nói của nhiều người hòa lẫn làm một nên nội dung là chuyện gì thì không nghe ra được. Có lúc nghe cả tiếng cười, có vẻ dịu nhẹ, thanh tao. Vậy là tầng nhà dưới đang có tiệc tùng vui vẻ rồi. Như điểm xuyết thêm màu sắc, lại nghe có cả tiếng ngân thánh thót của các ly sâm banh hay rượu vang gì đấy chạm nhau. Có lẽ có người đang nhảy nữa, nghe cả tiếng đế giầy da di động nhịp nhàng trên sàn nhà.
Tôi rón rén nhón gót đi không vang tiếng chân trên hành lang tối, ra đến chỗ ngoặt cầu thang. Rồi nhường người qua tay dựa cầu thang, nhòm xuống dưới. Từ khung kính dài hẹp trên cửa chính lọt vào chút ánh sáng nhạt soi mờ khoáng tiền sảnh rộng lớn, trang nghiêm. Chẳng có bóng người nào cả. Cánh cửa mở ra hai bên ngăn tiền sảnh với phòng khách đã được đóng kín lại. Cánh cửa này, lúc tôi đi ngủ, đã mở ra kia mà? Chần chần như thế. Quả là sau khi tôi lên tầng trên ngủ thì có người nào đấy đóng cửa này lại rồi.
Tôi chợt bối rối không biết nên làm sao. Cứ thế mà trốn kín trong phòng trên lầu cũng được. Từ bên trong, cứ khóa cửa phòng rồi chui vào giường. Bình tĩnh mà xét thì đó là cách tốt nhất. Thế nhưng đứng ở cầu thang, nghe ngóng tiếng nhạc vui nhộn, tiếng cười nói vung ra từ sau cánh cửa ấy một hồi, cơn sốt ban đầu dần đần lông đọng như vòng sóng trên mặt hồ lan dần và trầm lặng. Từ không khí như thế, tôi đoán là họ không phải là loại người xấu xa gì đâu.
Tôi hít thở một hơi thật dài rồi bước xuống cầu thang đến tiền sảnh. Đế giày cao su nhẹ nhàng in sát lên từng bậc thang bằng gỗ xưa cũ. Xuống hết cầu thang, tôi rẽ trái vào phòng bếp. Bật đèn lên, mở ngăn kéo, cầm lên một con dao thái thịt khá nặng.
Casey thích làm bếp, nên có một bộ dao đắt tiền chế tạo ở Đức. Và giữ gìn kỹ lưỡng.
Con dao bằng thép không rỉ được mài bóng loáng, cầm lên tay thật ngon lành, lưỡi dao sáng lên.
Thế nhưng, chợt tưởng tượng mình nắm chặt con dao chặt thịt to tướng ấy mà bước vào phòng tiệc huyên náo kia, sao mà có vẻ xuẩn ngốc quá! Tôi mở vòi nước róc uống một cốc xong, đặt lại con dao vào ngăn kéo.
Thế con chó thì ra sao rồi nhỉ?
Chợt để ý là chẳng thấy bóng dáng con chó Miles đâu cả. Không có nó trên chỗ ngủ là tấm mền thường ngày của nó. Con chó đã đi đâu rồi? Nếu có ai vào nhà trong đêm khuya khoắt thế này, đáng lý thì phải nghe nó sủa vài tiếng chứ. Tôi khom người xuống, đặt tay lên chỗ húng trên chiếc mềm dính đầy lông chó. Chẳng còn hơi ấm của nó. Có vẻ con chó đã rời chỗ ngủ đi đâu mất từ lâu rồi.
Tôi rời phòng bếp, ra tiền sảnh, ngồi xuống băng ghế nhỏ. Vẫn còn nghe tiếng nhạc liên tục. Tiếng nói chuyện liên tục. Lúc ồn ào, lúc êm dịu, như những đợt sóng, không ngừng nghỉ. Chẳng biết có bao nhiêu người trong đó Có vẻ ít nhất cũng đến người. Có khi hơn 20 người không chừng. Hẳn là phòng khách rộng rãi ấy đã chật chội lắm rồi.
Tôi phân vân không biết có nên mở cửa vào trong ấy không. Làm thế có vẻ khó, mà kỳ dị nữa. Tôi được nhờ trông nhà hộ nên có trách nhiệm nào đấy thế nhưng có được mới dự tiệc đâu.
Tôi định lắng tai nghe nhưng tiếng nói rời rạc lọt qua khe cửa để xem họ nói chuyện gì. Nhưng chịu thua. Các tiếng nói ấy quyện lẫn vào nhau thành một khối, không làm sao nhận ra từng lời được. Biết là chuyện trò đấy, lời nói đấy mà thấy như có cả bức tường dày dựng ngay trước mặt mình. Không có khe hở nào cho mình bước qua.
Tôi thọc tay vào túi quần, lấy ra một đồng tiền 25 xu, thơ khẩn lăn nó vòng vòng trong bàn tay. Đồng tiền màu bạc ấy gợi lại cho tôi cảm giác hiện thực rất rắn chắc.
Có thứ gì đấy như là một cái chày mềm đập vào đầu tôi.
Họ là ma đấy mà!
Đang tụ họp trong phòng khách nghe nhạc, chuyện trò với nhau ấy, không phải là người thực đâu!
Hai cánh tay tôi nổi da gà rờn rợn lạnh. Cảm giác như có thứ gì dao động mạnh trong đầu mình. Cứ như là chung quanh lệch đi, khí áp chợt biến đổi, và tai mình nghe lùng bùng nhè nhẹ. Định nuốt nước miếng nhưng cổ họng khô rang, không nuốt gì được. Tôi cho đồng tiền vào túi quần, đảo mắt nhìn quanh. Nghe tim mình bắt đầu đập mạnh những tiếng cứng.
Lấy làm lạ sao mình không để ý ngay từ trước. Chứ nghĩ xem, có ai mà lại mở tiệc vào giờ giấc quái gở như thế này đâu. Vả lại, từng này người mà đậu xe lại trước nhà rồi rầm rầm mở cửa vào nhà thì dù gì đi nữa làm sao mà tôi khỏi thức dậy được chứ. Mà con chó chần chần là đã sủa vang lên rồi. Thế nghĩa là, bọn bọ đã chẳng đến từ đâu cả.
Phải chi có con chó Miles ở đây. Tôi cần vòng tay ôm cổ con chó to lớn ấy, ngửi mùi của nó, da mình cảm nhận được hơi ấm của nó. Nhưng con chó ấy chẳng thấy đâu. Tôi ngồi trên băng ghế trong tiền sảnh, đờ người như bị ma ám. Sợ quá.
Nhưng cảm thấy có gì đấy vượt lên trên cả nỗi sợ nữa. Có gì đấy sâu thẳm mà mênh mông đến kỳ dị.
Tôi thở ra hít vào thật sâu vài lần để bình tĩnh thay đổi không khí trong phổi.
Thân thể dần dần lấy lại được cảm giác bình thường. Có cảm giác như trong tận cùng ý thức của mình, có mấy tấm cạc vừa nhẹ nhàng lật mặt lại.
Tôi đứng lên, và giống như lúc bước xuống đây, rón rén bước không thành tiếng lên cầu thang, trở lại phòng mình, chui tọt vào giường. Vẫn còn nghe tiếng nhạc và tiếng nói chuyện liên tục không dứt. Chẳng làm sao ngủ được nên tôi đành chịu trận như thế cho đến khi trời sáng. Để đèn suốt như thế, tôi ngồi tựa vào đầu giường, nhìn lên trần phòng, lắng nghe tiếng ồn từ đám tiệc có vẻ kéo dài không bao giờ dứt. Vậy mà cuối cùng rồi cũng ngủ mắt.
Khi mở mắt thức giấc, bên ngoài đang mưa. Mưa nhỏ hạt âm thầm. Cơn mưa mùa xuân, chỉ để thấm ướt mặt đất. Chim giẻ xanh kêu dưới hàng hiên, kim đồng hồ chỉ gần 9 giờ. Tôi để nguyên quần áo ngủ bước xuống tầng dưới. Cánh cửa ngăn giữa tiền sảnh và phòng khách đang mở ra đúng như lúc tôi đi ngủ tối hôm qua. Phòng khách không có gì xáo trộn cả. Cuốn sách tôi đọc vẫn úp mặt trên ghế sofa. Vụn bánh vẫn còn vương vãi trên chiếc bàn thấp. Đã đoán trước như thế, nhưng tôi vẫn lấy làm lạ sao không thấy hình tích gì là đã có tiệc tùng ở đây đêm qua.
Trên sàn phòng bếp, con chó Miles đang cuộn tròn say ngủ. Tôi đánh thức nó dậy, cho nó ăn. Như đã chẳng có chuyện gì xảy ra, con chó phe phẩy tai vừa ngồm ngoàm nhai.
Bữa tiệc nửa khuya kỳ dị trong phòng khách nhà Casey ấy chỉ xảy ra trong đêm đầu tiên mà thôi. Sau đấy hoàn toàn chẳng có gì lạ cả. Những đêm yên tĩnh, thầm kín của vùng Lexington tiếp nối nhau qua đi không có gì đặc biệt. Vậy mà chẳng hiểu sao, trong khoảng tôi ở đấy, hầu như đêm nào cũng thế, cứ đến giữa khuya là tôi mở mắt dậy. Lúc nào cũng khoảng ấy, từ 1 đến 2 giờ sáng. Có thể là vì ngủ một mình ở nhà người khác nên bồn chồn. Mà cũng có thể vì trong lòng tôi có nỗi mong chờ, sau một lần được biết buổi tiệc kỳ dị ấy. Mở mắt thức giấc giữa khuya, tôi nín thớ lắng tai nghe ngóng trong bóng tối. Nhưng chẳng nghe được tiếng động nào cả. Thỉnh thoảng, chỉ có tiếng lá cây ngoài vườn lao xao trăng gió. Lúc ấy, tôi xuống nhà dưới, vào bếp uống nước. Con chó Miles lúc nào cũng cuộn người ngủ trên sàn phòng, thấy tôi xuống thì mừng nhỏm dậy, quẫy đuôi, cạ đầu vào chân tôi.
Tôi dắt con chó vào phòng khách, bật đèn, chăm chú nhìn quanh phòng. Nhưng chẳng cảm nhận được động tĩnh gì. Ghế sofa và chiếc bàn thấp vẫn xếp hàng yên tĩnh ở chỗ mọi khi. cũng vẫn khung tranh sơn dầu vô hồn, vẽ cảnh bãi biển New England, treo trên tường. Tôi ngồi xuống sofa, không làm gì cả trong khoảng 10, 15 phút. Mắt nhắm lại, tập trung tinh thần để nghĩ xem có tìm ra được chút hình tích gì đấy không.
Nhưng chẳng cảm nhận được gì cả. Chung quanh tôi chỉ là đêm sâu bí hiểm của vùng ngoại ô thành phố. Mở cửa sổ hướng ra bồn hoa thì ngửi thấy mùi hoa xuân nồng đượm. Màn cửa lay nhẹ trong gió đêm, nghe có tiếng cú rúc sâu trong rừng thưa.
Tôi định bụng sẽ không đả động gì đến chuyện đã xảy ra trong đêm ấy khi Casey từ London trở về. Không giải thích vì sao cho song suốt được. Chỉ có cảm giác là chuyện này không nói với Casey thì hơn. Nghĩ vơ vẩn thế thôi.
“Sao, trong lúc trông nhà hộ tôi, có chuyện gì lạ không?”. Casey hỏi tôi khi về đến nhà.
“Không, có gì lạ đâu. Rất là yên tĩnh, công việc cũng song suốt lắm.” Mà đúng như thế thật.
“Thế thì tốt quá. Không còn gì bằng.” Casey vui mừng nói. Rồi lấy trong cặp ra chai rượu Whisky mạch nha tặng lôi. Chúng tôi bắt tay nhau, từ giã, tôi lái chiếc Volkswagen về phòng trọ ở Cambridge.
Sau đó, nửa năm tôi không gặp lại Casey lần nào. Chỉ có vài lần ông ta gọi điện thoại đến nói chuyện mà thôi. Cho tôi hay rằng người mẹ của Jeremy mất, người chỉnh dây đàn piano ít nói ấy đã không trở lại từ lúc đi West Virginia. Đúng vào khoảng ấy thì tôi đang cắm cúi viết cho xong đoạn cuối của một tiểu thuyết dài, ngoại trừ trường hợp cần thiết, thì không có thì giờ đề đi đâu hay gặp ai. Khoảng ấy, mỗi ngày tôi ngồi vào bàn, làm việc hơn 12 giờ, chẳng đi đâu khỏi phạm vi một cây số quanh nhà.
Lần cuối tôi gặp Casey là ở hiên cà phê gần bến thuyền của sông Charles. Đi tản bộ mà tình cờ gặp ông ấy rồi cùng uống cà phê. Không hiểu sao Casey trông già đi đến làm tôi ngạc nhiên, so với lần gặp trước. Trông ông khác hẳn đi, cứ như đã già thêm cả 10 tuổi. Tóc bạc thêm đã tràn phủ cả tai, dưới mắt đã thâm đen, thụng xuống như bao da. Những nếp nhăn trên lưng bàn tay đã tăng nhiều rồi. Đó là chuyện khó tường tượng ra đối với một người thanh lịch chú trọng tỉ mỉ đến ngoại hình như Casey.
Không biết ông ấy có bệnh hoạn gì đấy không. Nhưng Casey không nói gì đến chuyện ấy cả nên tôi cũng không hỏi.
“Có lẽ là Jeremy không còn trở lại Lexington nữa.” Casey lắc đầu nhẹ, nói với giọng trầm buồn. Ông cho biết là thỉnh thoảng đã điện thoại nói chuyện với Jeremy ở West Virginia, nhưng nghe có vẻ Jeremy bị sốc vì mẹ chết mà tâm tính thay đổi hẳn rồi. Hoàn toàn khác với Jeremy ngày trước. Hầu như bây giờ chỉ nói toàn chuyện chiêm tinh bói toán. Từ đầu đến cuối, chỉ nói toàn chuyện chiêm tinh. Ngày hôm nay tinh tú ở vị trí nào, do đó làm gì thì tốt, làm gì không nên, toàn chuyện như thế. Lúc sống ở đây có bao giờ jeremy nói chuyện sao này sao kia như thế đâu.
“Thật đáng tiếc! I’m really sorry.” Tôi nói. Tự mình, không hiểu mình đang nói về ai.
“Lúc mẹ tôi mất thì tôi mới 10 tuổi.” Casey nhìn cốc cà phê, ôn tồn nói. – “Tôi không có anh chị em nào nên chỉ còn bố tôi và tôi, hai người mà thôi. Mẹ tôi đã mất trong một tai nạn thuyền buồm vào đầu mùa thu năm ấy. Bố con tôi lúc ấy, hoàn toàn không chuẩn bị tinh thần đối với cái chết của mẹ tôi. Bà trẻ trung khoẻ mạnh. Trẻ hơn bố tôi đến hơn 10 tuổi. Thế nên cả bố tôi lẫn tôi đều không hề nghĩ một ngày nào đó mẹ tôi lại có thể mất đi. Vậy mà thình lình, bà đã không còn ở trên thế giới này nữa. Phụt một cái tan biến đi, cứ như là làn khói gì đấy. Mẹ tôi xinh đẹp. thông minh, ai cũng yêu mến. Thích tản bộ. có dáng đi rất đẹp, lưng thẳng, cằm hơi vươn ra trước, hai tay vòng sau lưng bước đi thật vui tươi. Hay vừa đi vừa hát. Tôi rất thích đi tản bộ với mẹ tôi. Tôi vẫn hằng nhớ hình dáng mẹ tôi bước đi trên đường ven bờ biển Newport trong nắng mai tươi mới của mùa hè. Gió thổi phơ phất vạt áo đầm mùa hè dài tươi mát của mẹ tôi. Chiếc áo bằng bông vải có hoa nhỏ đấy. Quang cảnh ấy đã khắc vào trí tôi như hình chụp rõ nét. Bố tôi rất yêu mẹ tôi, quý trọng bà lắm. Có lẽ ông yêu quý mẹ tôi nhiều hơn tôi là con trai của ông nữa. Bố tôi là người như thế. Ông yêu thương những gì chính tay của ông chiếm được. Đối với ông thì tôi là chút gì đã tự nhiên mà lọt vào tay ông thôi. Tất nhiên, ông cũng yêu thương tôi. Bởi tôi là con trai duy nhất mà. Nhưng ông không yêu thương tôi bằng yêu thương mẹ tôi. Tôi rất hiểu điều đó. Bố tôi không còn có thể yêu thương ai khác bằng yêu thương mẹ tôi được.
Sau khi mẹ tôi mất, ông không tái hôn lần nào. Đám tang mẹ tôi vừa xong thì bố tôi ngủ vùi suốt 3 tuần. Nói thế không ngoa đâu. Thật sự, ông đã ngủ suốt khoảng thời gian ấy. Thỉnh thoảng như nhớ ra thì lảo đảo bước khỏi giường, chẳng nói chẳng rằng lấy nước uống hay ăn chút gì đấy cho lấy có, thế thôi. Cứ như là người bị bệnh mộng du, hay bóng ma vậy. Nhưng chỉ trong phút chốc thôi rồi lại chui vào chăn nằm ngủ.
Tất cả cửa sổ đều đóng cả, cửa ngoài cũng đóng kín mít trong căn phòng tối mịt, không khí tù đọng, ông ngủ mê mệt cứ như là nàng công chúa say ngủ dưới lời nguyền phù thủy. Chẳng hề nhúc nhích. Chẳng hề trở mình, mà đến sắc mặt cũng không thay đổi. Tôi đâm ra lo sợ, nhiều lần đã đến bên canh chừng xem ông có sao không. Chỉ sợ ông chết luôn trong giấc ngủ. Tôi đứng bên gối, nhìn trừng trừng vào mặt ông đang ngủ.
Nhưng ông đã không chết ông chỉ ngủ mê mệt như viên đá chôn vùi trong lòng đất mà thôi. Có lẽ ông cũng đã chẳng mộng mị gì cả. Chỉ nghe có tiếng thở say ngủ
đều đều trong còn phòng tối tĩnh mịch ấy. Tôi chưa thấy ai ngủ say một giấc dài đến như thế. Thấy ông cứ như là người đã đi qua thế giới nào khác rồi. Tôi nhớ là đã sợ hãi quá đỗi. Trông ngôi nhà rộng lớn chỉ còn một mình tôi hoàn toàn trơ trọi, cảm thấy mình đã bị mọi người trên đời này bỏ rơi rồi.
Lúc bố tôi mất, 15 năm trước đây, tất nhiên là tôi đã đau buồn lắm nhưng thành thật mà nói tôi không ngạc nhiên gì mấy. Bởi hình dáng ông lúc chết cũng không khác gì hình dáng thời ông ngủ mê mệt ấy. Trông y hệt như thời ấy thôi. Như lặp lại lần nữa điều tôi đã thấy trước rồi. Nhìn thấy y chang đến bàng hoàng tưởng như trọng tâm của thân thể mình đã lệch hẳn đi. Tôi đã sao chép lại quá khứ nguyên vẹn như thế đã chẳng hề có khoảng cách thời gian đến gần 30 năm. Chỉ khác là lần này không nghe tiếng ông thở lúc say ngủ mà thôi.
Tôi thương bố tôi. Hơn bất cứ ai trên cõi đời này. Có kính trọng ông nhưng hơn thế nữa tôi được nối chặt với ông về tinh thần cũng như về tình cảm. Vì thế mà có chuyện kỳ quái xảy ra là, giống hệt như bố tôi lúc mẹ tôi mất đi, đến lúc bố tôi chết, thì chính tôi lại cũng vào giướng ngủ vùi như không bao giờ thức dậy nữa. Cứ như là thừa kế một thứ nghi thức của huyết thống đặc biệt gì đấy.
Có lẽ tôi đã ngủ suốt hai tuần lễ. Trong khoảng đó, tôi chỉ ngủ và ngủ,… ngủ mê mệt đến như thời gian mục rữa tan biến đi mất. Ngủ không ngừng, ngủ bao nhiêu cũng được. Ngủ bao nhiêu cũng không đủ. Lúc đó đối với tôi thế giới trong giấc ngủ mới là thế giới thực, chứ thế giới thực tại chỉ là thế giới giả tạo vô duyên, thứ thế giới mong manh nông cạn, thiếu màu sắc. Đến nỗi tôi nghĩ sống làm gì nữa trong thứ thế giới như thế. Thế là cuối cùng tôi lý giải được những điều hẳn là bố tôi đã cảm nhận khi mẹ tôi mất đi. Anh hiểu điều tôi nói không? Nghĩa là, có những sự việc đã diễn ra dưới hình thái khác với đời thường đấy. Vì không thể không nhận hình thái khác được.”
Sau đó. Casey im lặng một hồi như suy nghĩ gì đấy. Cuối mùa thu rồi, thỉnh thoảng có tiếng trái khô rụng xuống mật đường nhựa vẳng đến tai tôi.
“Có một điều có thể nói được…”, Casey ngẩng mặt lên, khóe miệng nở nụ cười hiền hòa thanh lịch cố hữu. – “… là bây giờ, ngay nơi này đây nếu tôi có chết đi, thì trên đời này không có ai vì tôi mà ngủ mê mệt như thế nữa.”
Thỉnh thoáng, tôi lại nhớ đến những bóng ma ở Lexington. Lũ ma bí hiểm đã mở tiệc huyên náo giữa khuya trong phòng khách của ngôi nhà xưa cũ của Casey. Rồi tôi nhớ đến Casey và ông bố đã đóng kín cửa phòng ngủ ở tầng trên mà ngủ mê mệt, liên tục và cô độc như chuẩn bị làm người chết. Và nhớ đến con chó Miles thân thiện, bộ sưu tập đĩa nhạc tuyệt vời đến phải nín thở mà chiêm ngưỡng. Nhớ đến nhạc Schubert trong tiếng đàn của jeremy, đến chiếc xe BMW màu xanh đậu trước cửa nhà.
Cảm thấy những sự việc ấy sao mà xa vời, như đã xảy ra từ thời xa xưa nào trong quá khứ, ở nơi chốn nào xa vời vợi. Mà thật ra, lại là chuyện vừa mới trải qua đây chứ đâu.
Tôi chưa hề kể chuyện này cho ai nghe. Nghĩ cho cùng thì hẳn là chuyện kỳ dị
thật đấy, thế nhưng có lẽ vì cảm giác xa xôi vời vợi ấy mà tôi lại chẳng thấy gì là kỳ dị cả.
_____________________
Truyện ngắn “Lexington no juri” đã ra mắt người đọc trên Tạp chí Gunzo số tháng mười năm 1996.