“Bóng tối thiên đường” là tác phẩm cuối cùng của Erich Maria Remarque, nhà văn nổi tiếng với những tác phẩm phản chiến đầy ám ảnh. Cuốn sách là lời tự sự đầy xúc động về Robert Ross, một người tị nạn chiến tranh tìm kiếm hạnh phúc ở Hoa Kỳ.
Robert Ross đã trải qua những năm tháng kinh hoàng trong trại tập trung. Sau khi được giải cứu, anh đến Mỹ với hy vọng bắt đầu một cuộc sống mới. Trên mảnh đất tự do này, anh tìm thấy tình yêu với Natasha xinh đẹp và có một công việc ổn định. Tuy nhiên, bóng đen quá khứ vẫn luôn ám ảnh anh. Những ký ức về chiến tranh, về những người bạn đã hy sinh, về quê hương đã bị tàn phá khiến anh không thể nào thanh thản.
Cuốn sách là một bản giao hưởng đầy cảm xúc về tình yêu, quê hương và ký ức. Robert Ross yêu Natasha say đắm, nhưng tình yêu của anh không thể xua tan được những ám ảnh quá khứ. Anh nhớ quê hương da diết, nhớ những con đường, những ngôi nhà, nhớ cả những người đã từng đối xử tệ bạc với anh.
“Bóng tối thiên đường” là một lời tố cáo mạnh mẽ chiến tranh. Remarque đã phơi bày sự tàn khốc của chiến tranh, những mất mát và bi thương mà nó mang lại cho con người. Cuốn sách cũng là lời ca ngợi những giá trị nhân văn cao đẹp: tình yêu, tình bạn, lòng nhân ái và niềm hy vọng vào cuộc sống.
Với lối viết nhẹ nhàng, sâu lắng cùng những câu văn đầy chất thơ, “Bóng tối thiên đường” đã chinh phục trái tim của hàng triệu độc giả trên thế giới. Cuốn sách là một trải nghiệm đọc đầy cảm xúc, khiến bạn suy ngẫm về cuộc sống, về tình yêu và về giá trị của quê hương.
Mời các bạn đón đọc Bóng Tối Thiên Đường của tác giả Erich Maria Remarque.
—
Vài tuần lễ trước đây tôi có đáp một chuyến tàu chở hàng từ Lisbon đến nước Mỹ. Tôi nói tiếng Anh chật vật lắm và tôi có cảm tưởng như người ta đã xua tôi, một kẻ nửa câm nửa điếc, từ trên tàu xuống một hành tinh lạ. Đúng, đây là một hành tinh khác hẳn. Bởi lẽ ở châu Âu chiến tranh đang xảy ra.
Giấy tờ của tôi lại lung tung, lộn xộn nữa, tuy đúng là nhờ một phép mầu mà tôi đã có một tờ chiếu khán thứ thiệt của nước Mỹ cho phép tôi lên bờ. Nhưng tờ chiếu khán của tôi lại mang tên họ của một người khác. Cơ quan nhập cảnh tỏ ý hoài nghi đã đưa tôi tới Ellis Island*. Và mãi sáu tuần lễ sau người ta mới chịu cấp cho tôi giấy phép cư trú tạm thời với cái hạn vỏn vẹn ba tháng. Trong hạn định đó tôi phải tự lo liệu cho mình giấy tờ cho phép tôi đến cư ngụ ở một nước nào khác.
Ellis Island: cửa ngõ đón nhận người nhập cư vào Hoa Kỳ nhiều nhất từ năm 1892 đến 1954.
Một hình ảnh quen thuộc. Tại châu Âu tôi cũng có một nếp sống hệt như bây giờ và những khoảng dừng chân đâu đó ấy kéo dài không phải là vài ba tháng mà chỉ vài ba ngày. Là dân tị nạn Đức, tôi được xem như đã chết từ năm 1933. Còn bây giờ trong ba tháng tới tôi không cần chạy trốn đi đâu làm gì, thực là một giấc mơ khó tin!
Cũng đã từ lâu rồi, tôi không còn ngạc nhiên vì tôi mang tên họ của một người khác và tôi đang sống bằng tờ giấy chứng minh của một người đã chết. Ngược lại tôi cảm thấy đấy là một điều rất hợp lí. Tôi thừa hưởng tờ giấy chứng minh này tại Frankfurt. Tên người đã tặng nó cho tôi trước lúc tử thần đưa đi là Robert Ross. Hầu như tôi đã quên hẳn tên cha mẹ đã đặt cho tôi. Người ta dễ dàng quên khuấy đi biết bao nhiêu điều khi cuộc sống đang gặp nguy hiểm.
Tại Ellis Island tôi gặp một người Thổ đã từng ở tại Mỹ mười năm trước. Tôi không rõ vì duyên cớ gì người ta không cho phép anh chàng người Thổ này ở lại Hợp chủng quốc lần nữa. Hỏi thì không tiện. Tôi còn nhớ nhiều lần đã xảy ra chuyện người ta đuổi người này người khác ra khỏi địa hạt cai quản của mình chỉ vì những người này không thích hợp với một điểm nào đó trong bản quy chế mà thôi.
Anh chàng người gốc Thổ trao cho tôi địa chỉ của một người Nga tại New York mà anh ta đã kết bạn từ lâu lắm rồi. Đáng tiếc anh chàng Thổ Nhĩ Kì này cũng không còn rõ người bạn Nga kia đã chết hay còn sống. Nhưng khi người ta cho phép tôi đi khỏi Ellis Island, tôi liền lên đường tìm tới địa chỉ ông bạn Nga kia luôn. Hành động của tôi rất dễ hiểu thôi. Tôi luôn sống như cỏ cây suốt bao năm tháng. Những ai buộc phải chấp nhận một cuộc sống phiêu bạt thì họ không còn trông cậy vào điều gì khác ngoài sự tình cờ, rủi may. Điều tình cờ, rủi may kia càng có vẻ bất hợp lí bao nhiêu, họ lại càng cảm thấy nó tự nhiên bấy nhiêu. Và trong thời buổi nhiễu nhương, tao loạn này, cái thường ngày chả phải đôi khi trở thành chuyện huyền thoại đó sao? Một câu chuyện huyền thoại không lấy gì làm vui vẻ lắm đâu, nhưng cũng thật lạ, cái kết cục của nó thường lại đẹp mê, may mắn hơn rất nhiều điều mà ta trông đợi.
Ông bạn người Nga làm việc tại một khách sạn xoàng xĩnh cách Broadway không xa. Tên ông ta là Melikov. Ông ta nói được tiếng Đức và thế là ông ta hiểu tôi ngay. Ông ta biết tôi đang cần điều gì hơn tất cả: nơi nương náu và công việc làm. Nơi nương náu tìm ra không khó: ông người Nga còn một chiếc giường thừa và ông ta sẽ kê thêm vào trong gian buồng của mình. Nhưng với tấm giấy phép cư trú tạm thời như cấp cho khách du lịch quả là khó tìm nổi một công việc. Người ta yêu cầu nhiều thứ giấy tờ nữa – chủ yếu là giấy cho phép nhập cảnh với hạn ngạch của người lưu vong hẳn hoi. Có nghĩa là tôi không thể nào tìm ra được việc làm hợp pháp. Y hệt bên châu Âu, nhưng điều này cũng chẳng khiến tôi sầu não, buồn rầu lắm. Trong túi tôi vẫn còn một ít tiền.
– Anh bạn sẽ sống bằng gì đây? Anh bạn đã nghĩ về khoản này chưa? – Melikov hỏi.
– Khoảng thời gian cuối cùng khi ở Pháp tôi làm ở một cửa hàng bán những bức tranh còn chưa rõ xuất xứ và những thứ hàng giả cổ.
– Anh có biết nhiều về lĩnh vực này không?
– Cũng tàm tạm.
– Anh trau dồi những hiểu biết đó ở đâu?
– Tôi đã ở bảo tàng Brussels hai năm liền.
– Anh làm việc ở đó hay sao? – Melikov ngạc nhiên hỏi lại.
– Không. Tôi ẩn náu ở đó. – Tôi đáp.
– Tránh bọn Đức à?
– Đúng thế. Bọn chúng chiếm đóng nước Bỉ.
– Những hai năm cơ à? – Melikov lại sửng sốt hỏi. – Thế chúng không phát hiện ra anh sao?
– Không. Chúng tóm được người che giấu tôi.
Melikov ngước nhìn tôi:
– Còn anh chuồn được à?
– Phải.
– Thế người kia ra sao?
– Như tất cả những ai bị bọn chúng bắt. Chúng đưa ông ta đến trại tập trung.
– Ông ta cũng là người Đức?
– Ông ấy là người Bỉ. Giám đốc viện bảo tàng.
Melikov gật gù.
– Làm cách nào mà anh lẩn trốn ở đấy lâu đến thế được? – Sau một lát im lặng, Melikov lại hỏi. – Chẳng lẽ viện bảo tàng không có khách đến tham quan sao?
– Tất nhiên là có chứ. Ban ngày tôi ngồi như bị cầm tù dưới tầng hầm chứa đồ. Tối đến ông giám đốc tìm xuống, mang cho tôi đồ ăn và khi trời tối ông ta thả tôi ra khỏi nơi ẩn náu. Tôi không đi đâu xa khỏi bảo tàng, nhưng tôi có thể lên khỏi tầng hầm. Tất nhiên là không được châm lửa hút thuốc hoặc rọi đèn rồi.
– Thế những người làm việc trong bảo tàng không biết gì sất à?
– Không. Dưới tầng hầm không có một chiếc cửa sổ nào cả. Còn khi có ai đi xuống hầm tôi ngồi im như thóc. Tôi chỉ sợ nhất là mình sẽ hắt hơi không đúng lúc.
– Vì mấy cái hắt hơi ấy mà anh bị lộ sao?
– Không phải. Một kẻ nào đó đã để ý thấy ông giám đốc thường ngồi lì quá lâu trong viện hoặc trở về viện lúc sập tối.
– Rõ rồi, – Melikov nói. – Ở dưới hầm anh có thể đọc sách được không?
– Chỉ vào mùa hè hoặc những đêm có trăng thôi.
– Đêm đến anh được phép đi dạo trong bảo tàng và xem tranh chứ?
– Vâng, nhưng chỉ khi còn nhìn rõ.
Melikov cười và đột nhiên hỏi tôi:
– Anh muốn ăn chút gì không?
– Có. – Tôi nói. – Tôi đang đói cồn cào đây.
– Tôi cũng nghĩ như vậy. Khi con người ta được hưởng chút tự do, lập tức anh ta cảm thấy muốn ăn như chó đói. Ta ra hiệu thuốc đi.
– Hiệu thuốc?
– Phải. Ta hãy tới hiệu thuốc. Đây là một trong những nét đặc biệt của Hợp chủng quốc. Tại hiệu thuốc người ta vừa mua aspirin vừa nhấm nháp đồ ăn.
– Anh làm gì suốt từ sáng đến tối ở viện bảo tàng để khỏi phát điên? – Melikov hỏi.
Tôi đưa mắt lướt nhìn hiệu thuốc: cạnh quầy bán thức ăn người ta đang vội vã nhai, mắt lơ đãng ngắm những tấm biển quảng cáo và các lọ thuốc.
– Chúng ta ăn gì bây giờ? – Tôi cất tiếng hỏi.
– Thịt băm viên. Món ăn này và món xúc xích nữa là thứ người Mỹ ưa thích nhất. Món bít tết thì không hợp với túi tiền hạng bình dân.
– Ông hỏi tôi làm gì suốt ngày ở viện bảo tàng à? Tôi ngồi đợi khi trời sập tối. Và đương nhiên là tôi luôn tránh nghĩ tới những mối hiểm nguy đang đe dọa tôi. Nếu không thì tôi sẽ bị điên ngay. Tiện thể cũng cần nói luôn điều này: tôi đã có mấy năm để tích lũy kinh nghiệm về việc lẩn trốn rồi. Một năm ở ngay tại nước Đức. Tôi không cho phép mình được nghĩ là tôi đã phạm một sơ suất nào đó. Sự ăn năn còn cắn xé lòng dạ ghê gớm hơn cả axít mạnh. Từng học tiếng Pháp nên tôi tự ra bài vở cho mình. Thời gian sau nữa thì đêm đêm tôi lang thang trong viện bảo tàng, ngắm các bức tranh và ghi nhớ lại trong đầu các bức tranh ấy. Chẳng bao lâu sau tôi đã biết được tất cả các bức tranh có ở đấy. Rồi ban ngày ở nơi tối như hũ nút kia, tôi thầm phục hiện lại bộ sưu tập trong đầu. Tôi sắp xếp lại chúng theo một hệ thống, đôi khi tôi đã bỏ rất nhiều thì giờ cho một bức tranh. Nhiều lúc chán nản tôi đã bỏ dở, song rồi tôi lại bắt đầu tất cả từ đầu. Giả như tôi chỉ có một mục đích ngắm tranh để mà ngắm tranh thôi, có lẽ tôi đã quỵ ngã rồi. Nhưng tôi đã tự đặt ra kiểu như bài luyện tập cho trí nhớ, vì thế mọi việc trôi chảy. Thế là tôi không cảm thấy bế tắc nữa mà lúc nào cũng như người vượt núi, leo hết bình độ này tới bình độ khác, ông có hiểu không?
– Hiểu, nghĩa là anh không bao giờ để cho mình được nhàn rỗi, – Melikov nói. – Anh có mục đích sống, điều đó đã cứu giúp anh.
– Suốt cả mùa hè tôi nghiên cứu tranh của Cézanne và một số bức tranh của Degas. Lẽ tất nhiên đó là những bức tranh hiện lên trong trí tưởng tượng và tôi cũng chỉ đánh giá chúng trong trí tưởng tượng mà thôi. Nhưng dẫu sao thì cũng là đánh giá. Và điều này khiến chúng trở thành một thử thách. Tôi học cách nhớ thuộc lòng màu sắc và cấu trúc của các bức tranh, tuy tôi không được nhìn thấy các màu sắc dưới ánh sáng ban ngày. Hoàn toàn là Cézanne dưới ánh trăng và Degas trong màn đêm. Tôi đã ghi nhớ, đã so sánh các bức tranh ấy trong cảnh tranh tối tranh sáng như vậy. Ít lâu sau tôi tìm thấy trong thư viện những cuốn sách viết về nghệ thuật. Ngồi sát bậu cửa sổ tôi ngốn ngấu đọc. Thật là một thế giới hư ảo nhưng dẫu sao cũng vẫn là một thế giới.
– Chả lẽ bảo tàng không có người canh gác sao?
– Ban ngày thôi. Ban đêm họ khóa tất cả cửa lại. Thật là một diễm phúc cho tôi.
– Và không diễm phúc cho người đã mang đồ ăn xuống hầm cho anh.
– Đúng là nỗi bất hạnh cho ông giám đốc viện bảo tàng! – Tôi nhìn Melikov, bình thản nói. Tôi hiểu rằng những lời nói của ông người Nga không ẩn ý xấu. Ông ta không phán xét tôi. Đơn giản là ông ta chỉ bình luận về một sự việc.
– Anh đừng hi vọng sẽ kiếm được chân rửa bát chén, dù là tạm thời. Đó là thứ lãng mạn viển vông. Kể từ khi có các công đoàn, cơ hội ấy không còn nữa đâu. Anh có thể chống chọi để không chết đói chừng bao lâu?
– Hoàn toàn không lâu đâu. Bữa sáng này phải trả bao nhiêu?
– Một đô la rưỡi. Từ khi chiến tranh bắt đầu mọi thứ ở đây đều đắt lên.
– Chiến tranh? – Tôi nói. – Ở bên này đang xảy ra cuộc chiến tranh nào?
– Chiến tranh đang xảy ra, – Melikov khẳng định, – và điều đó mang lại may mắn cho các anh đấy. Người ta đang cần người. Không còn kẻ thất nghiệp nữa. Anh sẽ tìm được công việc dễ dàng hơn.
– Nhưng ba tháng nữa tôi buộc phải rời khỏi nơi này rồi.
Nheo nheo mắt, Melikov mỉm cười.
– Mỹ là một xứ sở mênh mông. Và cuộc chiến lại đã bắt đầu. Một sự may mắn nữa cho các anh đấy. Anh sinh trưởng ở đâu?
– Theo như trong chứng minh thư thì ở Hamburg, thực ra tôi sinh ở Hanover.
– Chẳng vì quê anh ở nơi này hay nơi khác mà anh bị đe dọa sẽ phải đi khỏi nơi đây. Nhưng anh có thể bị đưa vào trại tập trung dành cho những người bị cầm giữ.
– Tôi đã từng ở một trại tập trung như vậy. Tại Pháp. – Tôi nhún vai nói.
– Rồi anh chạy trốn à?
– Nói đúng hơn tôi lặng lẽ ra đi. Sau khi nước Pháp thất bại, tình trạng hỗn loạn chung đã bắt đầu.
Melikov gật đầu.
– Tôi cũng đã từng sống ở Pháp, trong sự hỗn loạn chung của một chiến thắng tưởng tượng. Năm 1918. Tôi đến từ Nga, qua ngả Phần Lan và Đức. Trong đợt sóng di cư đầu tiên. Chúng ta uống một chút vodka nhé?
– Tôi đã luyện được thói quen từ bỏ rượu chè, – tôi đáp. – Nhiều lần vì rượu tôi đã phải đánh giá lại sức vóc của mình. Có hai lần rượu chè đã đưa tôi tới những kết quả thật thảm thê… tới khám tù nhung nhúc rận rệp.
– Ở Tây Ban Nha à?
– Ở Bắc Phi.
– Dẫu sao thì cũng cứ liều thêm một lần thứ ba. Các gian khám giam tù nhân ở đây rất sạch sẽ. Rượu tôi đã tích sẵn ở khách sạn. Anh mà vào tù thì không ai thí cho anh lấy một giọt đâu… Anh là một con người lãng mạn chứ? – Melikov hỏi tôi.
– Đối với tôi thì sự lãng mạn là một thứ xa xỉ không được phép. Cảnh sát tóm cổ những anh chàng lãng mạn dễ hơn những người khác.
– Về bọn cảnh sát ấy thì trong vài tháng tới anh không phải bận tâm làm gì.
– Đúng thế. Nhưng dẫu sao tôi cũng khó quen ngay với hoàn cảnh mới này.
Hai chúng tôi trở về căn phòng của ông người Nga tại khách sạn. Nhưng chỉ một lát sau tôi cảm thấy không tài nào chịu đựng được nữa. Tôi không muốn uống rượu, không muốn ngồi lại giữa chiếc ghế bọc nhung đã sờn rách, và gian phòng của Melikov thì bé tí xíu. Tôi muốn được phóng ra phố. Người ta đã giam hãm tôi quá lâu rồi. Ellis Island, dù thoải mái thế nào đi nữa, thì chung quy vẫn là một nhà tù. Melikov cho rằng trong ba tháng tới tôi không việc gì phải sợ hãi bọn cảnh sát vẫn ám ảnh trong đầu tôi. Ba tháng – một thời hạn thật đáng kể.
– Tôi có thể dạo chơi trong bao lâu?
– Tùy anh muốn.
– Khi nào ông đi ngủ?
Melikov vẫy tay vẻ phớt đời.
– Không trước lúc trời hửng sáng. Tôi có công việc của tôi. Anh muốn kiếm một ả gà mái không? Ở New York, việc này không dễ dàng như Paris đâu. Cũng phải liều lĩnh một chút đấy.
– Không. Tôi chỉ muốn đi dạo loanh quanh phố xá một chút thôi.
– Tìm gà mái ở ngay khách sạn này dễ hơn nhiều.
– Tôi không cần.
Tôi lang thang dạo gót qua những phố xá không tên tuổi như một kẻ nhàn tản. Những luồng khói nhạt của các đường phố ngùn ngụt bốc lên tận trời. Một khối lửa vào ban đêm, còn ban ngày lại là một đám mây trắng – đó chẳng phải là con đường trên sa mạc mà Chúa trời đã chỉ ra cho cái làn sóng đầu tiên của những người bị trục xuất, những kẻ phải di tản sao?
Tôi đi xuyên qua cơn bão tố của những lời trò chuyện, những âm thanh, những tiếng cười, tiếng gào la gõ boong boong vào màng nhĩ, tôi nghe tiếng còi xe mà không hiểu ý nghĩa của nó. Sau khi bị nhận chìm trong màn đêm ở châu Âu, ai ở đây đối với tôi cũng là thần Prometheus: kia, một chàng trai đầm đìa mồ hôi trong luồng ánh sáng từ đèn điện đang thò tay ra khỏi cánh cửa của một quầy hàng, bàn tay anh ta vắt kín khăn tay và khăn ăn, van vỉ chào mời người đi đường mua hàng cho anh ta; kia một bác đầu bếp đang rán một con gà trên chiếc chảo lớn, xung quanh bác ta những tàn than củi bay tứ tung, dường như bác không còn là một con người nữa mà một vị thần trong truyện cổ tích.
Tôi không thông hiểu tiếng nói ở đây, chính vì lẽ đó mọi người lướt qua trước mắt tôi như trong một màn kịch câm… Tôi cảm thấy như tất cả bọn họ đang biểu diễn trên sân khấu và trước mắt tôi không phải là bác đầu bếp, không phải là những người chào hàng, bán hàng mà là những con rối đang sắm vai trong một vở kịch kì bí. Chỉ mình tôi là không tham gia trong vở kịch kia mà chỉ đứng đó đoán ngầm ý nghĩa chung của nó. Tôi ở giữa đám đông nhưng lại cảm nhận rõ ràng mình là kẻ xa lạ, không liên quan gắn bó gì với đám người đông đúc, nhộn nhạo kia. Giữa tôi và họ không phải bị ngăn cách bởi một bức tường kính, một khoảng cách, một sự thù
địch hoặc sự lạ lẫm mà là một điều gì đó không thể nắm bắt được. Cái “điều gì đó” kia chỉ can hệ tới một mình tôi và đâm chồi mọc rễ trong bản thân tôi. Tôi mù mờ hiểu ra cái khoảnh khắc này có một không hai, nó không bao giờ tái diễn nữa – ngay ngày mai thôi cái cảm giác đang xâm chiếm tôi lúc này sẽ nhòa nhợt, yếu ớt đi nhiều. Không phải những người đang ở xung quanh tôi kia sẽ trở nên gần gụi với tôi hơn mà chính là ngược lại. Từ ngày mai tôi sẽ bắt đầu cuộc đấu tranh để sinh tồn, tôi sẽ bò dán sát bụng dưới đất, tôi sẽ nhượng bộ, dối trá để vượt qua mọi nỗi cay đắng, khổ đau, vốn là thứ tạo nên chất đời thường của chúng ta hôm nay. Dẫu sao đêm hôm nay đối với tôi cái thành phố này vẫn còn giữ được bộ mặt bí ẩn.
—
Về khoản tiếng Anh tôi đã đạt được những thành công đáng kể. Sau hai tuần lễ lượng từ vựng của tôi có thể sánh bằng một chú bé mười lăm. Sáng sáng giữa những chiếc ghế nhung sờn rách tôi gạo món ngữ pháp vài tiếng đồng hồ, còn buổi chiều tôi tìm mọi cơ hội để thực hành bằng miệng. Tôi hành động không mảy may ngượng ngập và sau mười ngày với sự hướng dẫn của Melikov, tiếng Anh của tôi dù mang giọng Nga, tôi vẫn cứ trò chuyện văng mạng với khách và các nhân viên khách sạn. Thế rồi dần dà tiếng Anh của tôi mang âm hưởng của cả tiếng Đức, tiếng Do Thái, tiếng Pháp. Cuối cùng khi giao du với giới quét rác, dọn bàn và hoàn toàn tin chắc rằng bọn họ là những người Mỹ một trăm phần trăm, tiếng Anh của tôi lại mang thêm âm hưởng vùng Brooklyn.
– Anh cần phải có một mối tình với một cô gái Mỹ trẻ trung. – Melikov nói.
– Trong giới cần lao ở Brooklyn à? – Tôi hỏi.
– Tốt nhất là kết bạn với một cô gái ở Boston. Ở đó mọi người nói tiếng Anh khá chuẩn.
– Thế thì tìm một cô giáo người Boston. Có lẽ đấy là điều hợp lí nhất.
– Thật không may, khách sạn này chỉ là cái trạm dừng chân ven đường. Những thứ âm sắc muôn màu muôn vẻ kia chỉ là vi trùng lao được ném vào không khí thôi. Còn anh, than ôi, lại dễ dàng du nhập những thứ lệch lạc kia và hoàn toàn điếc lác với thứ ngôn ngữ chính xác. Tôi hi vọng tình yêu sẽ cứu thoát anh.
– Melikov, – tôi nói, – thế giới này thay đổi quá nhanh chóng trước mắt tôi. Cái tôi người Mỹ trong tôi mỗi ngày già đi hàng tuổi và thật đáng tiếc, rất đáng tiếc thì đúng hơn, thế giới của cái tôi đang đánh mất đi phép mầu của mình. Tôi càng thông tỏ thứ ngôn ngữ này bao nhiêu thì sự bí ẩn đầy quyến rũ của nó càng biến đi nhanh chóng bấy nhiêu. Qua vài tuần nữa hai cái tôi trong con người tôi sẽ cân bằng. Cái tôi Mỹ sẽ trở nên tỉnh táo, sáng suốt đến thảm hại như cái tôi châu Âu. Vì vậy đừng hối thúc tôi. Cũng đừng lo về giọng của tôi, tôi không muốn để tuổi ấu thơ thứ hai của mình trôi qua quá nhanh chóng.
Một người lạ, bước đi cà nhắc, vừa bước vào gian phòng ngoài. Chúng tôi đang ngồi trong chỗ tranh tối tranh sáng nên tôi chỉ lờ mờ nhận ra anh ta. Những bước tập tễnh của anh lại theo nhịp ba-bốn khiến tôi chợt nhớ đến một người nào đó.
– Lachmann! – Tôi buột miệng.
– Tôi là Merton! – Người mới đến đáp.
Người đó dừng lại và đưa mắt về phía tôi.
– Lachmann. – Tôi nhắc lại.
Tôi bật công tắc điện. Từ cái chùm đèn khốn khổ là mẫu hình mô đen tồi tệ nhất những năm đầu của thế kỉ này tỏa ra một làn ánh sáng xanh lờ mờ rất buồn thảm.
– Lạy Chúa tôi, Robert! – Người vừa bước vào thốt lên ngạc nhiên. – Cậu vẫn còn sống à? Thế mà tớ nghĩ cậu đã chết từ lâu rồi.
– Tớ cũng nghĩ như thế về cậu. Nhưng vừa rồi tớ nhận ngay ra cậu vì bước đi dáng đứng của cậu.
– Bước theo nhịp ba-bốn phải không?
– Theo nhịp waltz. Cậu biết Melikov không?
– Ừ, đương nhiên tớ biết ông ta.
– Cậu sống ở đây à?
– Không. Nhưng thỉnh thoảng có rẽ qua chơi.
– Bây giờ cậu mang họ là Merton sao?
– Phải. Còn cậu?
– Ross. Tên thì vẫn như cũ.
– Thế là quả đất lại tròn rồi. – Lachmann nói và anh ta cất tiếng cười thoải mái.
Chúng tôi im lặng giây lát. Đấy là khoảnh khắc bối rối thường thấy giữa những kẻ lưu vong. Bởi lẽ không nên hỏi thêm về ai và về điều gì nữa. Cũng không biết ai còn sống mà hỏi đây.
– Cậu có hay tin gì về Kahn không? – Cuối cùng tôi lên tiếng. Và bây giờ là câu chuyện trao đổi theo lẽ thường. Thoạt đầu ta hỏi thăm những ai không quá gần gụi, thân thiết đối với người ta muốn hỏi thăm.
– Hắn đang ở New York. – Lachmann đáp.
– Anh ta cũng đang ở đây như chúng mình à? Anh ta đến được đây bằng cách nào vậy?
– Giống như mọi người khác đã tới được nơi đây thôi. Nhờ vào hàng nghìn điều tình cờ. Không một ai trong chúng ta có tên trong bản danh sách những nhân vật nổi tiếng do người Mỹ chọn lựa cả.
Melikov tắt bớt đèn trên trần nhà và lấy từ dưới bàn ra một chai rượu.
– Rượu vodka Mỹ đây, – ông ta nói. – Đại loại giống thứ rượu Bordeaux của California hay Burgundy của San Francisco, Rhine của Chile… Một trong những lợi thế của bọn lưu vong chúng mình là vì luôn luôn phải chia tay nhau nên cũng luôn luôn uống mừng những lần gặp lại. Thành thử bỗng có cảm giác như được sống nhiều năm tháng lắm không bằng.
Cả tôi lẫn Lachmann không hưởng ứng câu nói của Melikov. Ông ta là con người của một thế hệ khác: những gì đang làm chúng tôi đau buốt tim, đối với ông ta tựa như đã thành một hoài niệm.
– Salut, Melikov! – Tôi lên tiếng phá tan sự im lặng. – Tại sao khi sinh ra đời chúng ta không là những môn đệ của trường phái yoga nhỉ?
– Tớ thì mong ước be bé thôi. Mong sao sinh ra đã không là dân Do Thái ở cái nước Đức kia. – Lachmann nói.
– Các anh hãy coi mình như những công dân đầu tiên của thế giới này. – Melikov xen vào, giọng bình thản. – Và hãy cư xử sao cho xứng đáng là những nhà khai sáng đầu tiên. Sẽ tới thời điểm đặt những đài tưởng niệm về chính các anh thôi.
– Bao giờ thì tới cái thời điểm ấy? – Lachmann hỏi.
– Và ở đâu? – Đến lượt tôi cật vấn Melikov.
– Trên cung trăng. – Melikov đáp rồi bước tới bàn viết để trao chìa khóa cho một người khách vừa mới tới.
– Một tay thâm thúy. – Nhìn theo Melikov, Lachmann nói. – Cậu làm việc cho ông ta à?
– Sao cơ?
– Tay này buôn bán cả gái, cả moóc-phin và các hàng tương tự…
– Vì thế nên cậu cũng mò tới đây?
– Không. Tớ yêu say mê một người đàn bà sống ở đây. Bà ta, cậu có đoán được bao nhiêu tuổi rồi không, năm mươi, gốc gác là dân Puerto Rico, một con chiên ngoan đạo và chỉ còn một chân, chân kia bị cắt cụt. Hiện bà ấy đang bồ bịch với một tên Mexico. Một gã khốn nạn chính cống. Với năm đô la hắn đồng ý cho chúng tớ lên giường với nhau. Nhưng bà ta không muốn làm chuyện đó. Hoàn toàn không. Bà ấy tin rằng, Chúa trời ngồi trên đám mây nhìn thấy mọi điều. Cả ban đêm cũng vậy. Tớ nói với bà ta: Chúa trời cận thị. Cận từ lâu rồi. Song chẳng làm ăn được gì. Nhưng bà ta vẫn nhận tiền. Và hứa hẹn. Nhưng đến giờ hẹn lại cười. Rồi lại hứa hẹn. Cậu sẽ nói như thế nào về chuyện này? Chẳng lẽ vì thế mà tớ tới Hiệp chủng quốc chăng? Quỷ mới biết được.
Vì đôi chân thọt, Lachmann thường tự ti, nhưng cứ theo những lời kể của anh ta, trước kia anh chàng này đã đạt được những chiến tích lẫy lừng trong giới chị em. Vì biết chuyện đó một tên SS* đã bắt anh chàng đến một quán bia định thiến phéng bộ phận kia đi. Nhưng cảnh sát đã kịp thời ngăn cản. Việc này xảy ra vào năm 1934.
SS: viết tắt của Schutzstaffel, tổ chức vũ trang của Đức Quốc xã.
Sau lần suýt bị thiến ấy, trên mình Lachmann để lại vài vết sẹo và bốn chỗ gãy ở chân. Kể từ ngày đó anh ta bước đi tập tễnh và niềm say mê đàn bà ở anh ta cũng mang thêm dấu hiệu của thứ bệnh mới: anh chàng không cần gì ở người đàn bà hết ngoài cái phần sau phải rắn chắc và tỏ ra đã dạn dày. Thậm chí khi ở Pháp, ngay trong những ngày tháng nặng nề, căng thẳng nhất, anh chàng vẫn giữ nguyên niềm đam mê của mình. Anh ta cam đoan là tại Rouen anh ta đã rất mê mệt và hạnh phúc với một mụ đàn bà có ba vú, tức có cả thêm một chiếc vú ở phía sau lưng nữa.
– Bộ mông của ả rắn như đá, – Lachmann kéo dài giọng tiếc rẻ, – một thứ đá hoa cương nóng hôi hổi.
– Cậu chẳng thay đổi chút nào cả, Kurt ạ, – tôi nói.
– Con người ta nói chung là không thay đổi bao giờ. Tuy anh đã tự hứa với bản thân sẽ sửa đổi tới cả nghìn lần. Khi anh bị đo ván, anh hoàn toàn ăn năn, sám hối, nhưng khi được hít thở một chút tự do hơn, anh quên phắt ngay mọi lời thề bồi. – Lachmann suy nghĩ giây lát. – Điều đó là cái quái gì nhỉ: chủ nghĩa anh hùng hay sự ngu ngốc?
Trên vầng trán xám xịt đã hằn nếp nhăn của anh ta lấm tấm những giọt mồ hôi to như những hạt đậu xanh.
– Chủ nghĩa anh hùng, – tôi nói, – trong tình cảnh của chúng ta bây giờ cần phải trang điểm cho mình bằng những hình dung từ mĩ miều nhất. Không nên nhìn quá sâu vào tâm hồn làm gì. Hành động khác đi cậu sẽ cụng đầu vào đá ngay.
– Té ra cậu cũng chẳng thay đổi gì nhiều. – Lachmann đưa khăn tay lên lau những giọt mồ hôi trên trán. – Cậu vẫn thiên về những thứ triết lí triết liếc như trước. Có đúng vậy không?
– Tớ không thể từ bỏ thói quen đó, nó an ủi tớ.
Đột nhiên Lachmann phá lên cười:
– Và nó còn phú cho cậu thứ cảm giác tự hào chứ gì? Mọi chuyện là ở chỗ đó. Ôi, thật rẻ tiền biết bao!
– Niềm tự hào kia không rẻ tiền chút nào đâu.
Lachmann ngưng bặt, không đáp lại.
– Tớ chỉ nói vậy thôi. – Lachmann nói. Chờ cho hơi thở trở lại điều hòa hơn, anh ta móc từ trong túi áo ghi lê ra một vật gì đó gói trong giấy vấn thuốc lá. – Một chuỗi hạt do Giáo hoàng ban phước. Bằng bạc thứ thiệt và ngà voi đấy. Theo cậu thì chuỗi hạt này liệu sẽ tác động tới ả gà mái của tớ sao đây?
– Giáo hoàng nào?
– Giáo hoàng Pius. Còn ai nữa?
– Giáo hoàng Benedict XV thì hay hơn.
– Cậu nói cái gì? – Lachmann nhìn tôi tựa như vừa bị đánh từ phía sau. – Giáo hoàng Benedict chết từ tám hoánh rồi. Cậu không mơ ngủ đấy chứ?
– Giáo hoàng Benedict thì đáng tự hào hơn. Mà đã qua đời thì lại càng giá trị. Và không rẻ tiền.
– À ra là như vậy. Cậu lại xỏ tớ rồi. Tớ quên mất… Lần cuối bọn mình…
– Thôi! – Tôi nói.
– Cái gì cơ?
– Thôi, Kurt. Đừng nói gì nữa.
– Được rồi! – Lachmann lưỡng lự giây lát. Sau đó cái ý muốn được nói lại ngập ứ trong miệng anh ta. Lachmann mở một tờ giấy vấn thuốc lá màu xanh nhạt ra, không có bạc thật, ngà voi gì cả mà chỉ là một mẩu gỗ bé xíu. – Từ một cái cây ở vườn Gethsemane dưới núi Olives* đấy. Liệu thứ này ấn tượng với ả gà mái của tớ không? – Lachmann đăm đăm nhìn tôi với vẻ cầu cứu.
Vườn Gethsemane: nằm dưới chân núi Olives, thuộc Jerusalem, nơi chúa Jesus nghỉ chân vào đêm trước khi bị đóng đinh.
– Tất nhiên là ấn tượng. Mà cậu không có chai nước thánh nào từ sông Jordan à?
– Không.
– Thế thì làm một chai đi.
– Cái gì?
– Đổ nước lã vào. Ngoài hành lang có vòi nước đấy. Khoắng thêm một chút bụi để nhìn có vẻ là nước thánh. Không ai nghi ngờ gì đâu. Cậu đã có chuỗi hạt và cành ô liu được ban phước. Chỉ thiếu nước thánh từ sông Jordan mà thôi.
– Nhưng không thể đổ vào một chai vodka được.
– Tại sao không? Hãy bóc cái nhãn chai đi. Cái chai này nhìn như chai lọ của phương Đông ấy. Cái mụ già kia của cậu chắc không nghiện rượu vodka. Chắc lúc cao hứng mụ cũng chỉ uống rượu rum thôi.
– Không phải, whisky. Ghê không?
– Có gì mà ghê.
Lachmann trở nên tư lự.