Cát Cháy là một cuốn sách viết chân thực về chiến tranh và cuộc chiến của những đứa trẻ anh dũng của đội du kích thiếu niên ở Cô Sơn. Tác giả đã tạo nên một câu chuyện đầy cảm xúc về can đảm, quyết tâm, tình bạn, tình đồng đội và tình thân chân thực. Trong thế giới chiến tranh náo nhiệt, những đứa trẻ này không sợ hãi và quyết tâm chiến đấu với kẻ thù. Qua những trang sách, bạn sẽ ngưỡng mộ sự thông minh và dũng cảm của chúng, cũng như lo lắng mỗi khi họ đối diện với nguy hiểm. Câu chuyện về bé Một, một cô bé giao liên tháo vát và can đảm, sẽ chạm đến lòng của bạn. Những kỷ niệm thân thiết giữa Ba và Một được mô tả một cách tinh tế giữa những cảnh bom đạn, tạo nên những khoảnh khắc đẹp đẽ của tình bạn và sự hy sinh. Thanh Quế đã viết về trẻ con trong chiến tranh một cách cảm động và dung dị. Melancholia và đau thương về cuộc chiến được thể hiện qua từng trang sách. Đọc lại Cát Cháy, không khỏi cảm thấy những cảm xúc sâu sắc và lòng bi thương về những mất mát và khó khăn mà những đứa trẻ phải đối mặt. Chiến tranh đã kết thúc chưa? Câu trả lời có lẽ ẩn chứa ở những dòng văn sâu lắng của Thanh Quế.Cuộc chiến kéo dài, mất mát nặng nề, câu chuyện về chiến tranh không ngừng kết thúc. Tiểu thuyết “Cát Cháy” của nhà văn Thanh Quế lấy cảm hứng từ các hoạt động thực tế của Đội du kích thiếu niên Hòa Hải, một vùng chân núi Ngũ Hành Sơn đậm nét truyền thống văn hóa và cách mạng, trong những năm kháng chiến chống Mỹ quyết liệt. Cuốn sách đã giành giải nhì của Hội Nhà văn Việt Nam và Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh năm 1981 và là một trong hai tác phẩm đoạt giải Nhà nước năm 2012 của nhà văn Thanh Quế.
Nhà văn Thanh Quế, quê gốc ở Phú Yên, chia tay với mẹ già và các em gái sau cuộc chiến và định cư tại thành phố Đà Nẵng, nơi ông đã gắn bó và viết văn suốt nửa thế kỷ qua. Đà Nẵng chính là quê hương thứ hai ông nơi lưu giữ những kỷ niệm sống động, bi thương và đẹp nhất trong cuộc đời nhà văn. Thanh Quế từng là học sinh miền Nam sang miền Bắc học tại trường học sinh miền Nam số 24 Hà Đông, sau đó theo học khoa Sử tại Đại học Tổng hợp Hà Nội. Từ năm 1969, ông tham gia công tác tại chiến trường khu V. Hiện tại, ông là Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam, Tổng thư ký Hội Nhà văn Đà Nẵng.
Nhà thơ Thanh Quế, tên thật Phan Thanh Quế, sinh ngày 26/2/1945 tại xã An Chấn, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên, trong một gia đình trí thức yêu nước. Cha ông là bác sĩ, một lão thành cách mạng. Mẹ và các em cũng tham gia cách mạng, với người hy sinh và người trở về với vết thương nặng nề. Qua các giai đoạn học tập và công tác, Thanh Quế đã để lại dấu ấn với nhiều tác phẩm thơ và văn xuôi đầy nghệ thuật và tinh tế.Gian (truyện và ký), NXB Đà Nẵng-2007; Tuyển truyện Thanh Quế-chuyện ở miền Cát cháy, NXB Đà Nẵng-2009; Kẻ đào ngũ (tập truyện), NXB Quân đội nhân dân-2013; Tuyển truyện ngắn Thanh Quế, NXB Hội nhà văn -2011; Gương mặt và cảm nhận (chân dung văn học), NXB Đà Nẵng-2013; Ký và chân dung chọn, NXB văn học-2015; Hai người đàn ông và một người đàn bà(truyện), NXB Quân đội nhân dân-2016. Bạn cũng sẽ thấy tác phẩm thú vị này đã nhận được nhiều giải thưởng uy tín như giải nhì của Hội nhà văn Việt Nam và Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh vào năm 1981 với tiểu thuyết “Cát cháy”, và giải B của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam năm 1994 với tập thơ “Những tháng năm vay mượn”, cũng như giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2012 cho tiểu thuyết “Cát cháy” và tập thơ “Một gạch và chuyển động”..
Ba vừa muốn gặp ông, gặp mẹ ngay cho đỡ nhớ, vừa muốn hai người về chậm lại để mình có thời gian sắp xếp mọi ý nghĩ đang bề bộn trong đầu. Mọi thứ trong nhà: từ chiếc ảnh cha ố vàng trên bàn thờ, đến cái ghế, cái bàn, chiếc giường ọp ẹp, cả cánh cửa mở thông vào buồng trong không đóng lại bao giờ, vốn có ở những nhà nghèo, vẫn như cũ, mà lại không phải như cũ. Cảm giác quen thuộc mà cũng mới lạ khi quán tỉnh trong không gian quen thuộc.
Mình đồng hương đất Đà Nẵng có thể đã đọc các tác phẩm của tác giả này và sẽ thấy sự tâm huyết và tinh thần mà tác giả đã dồn vào từng dòng chữ. Đó chính là điều khiến các tác phẩm của ông trở nên đặc biệt và ấn tượng.Mặt hàng đầu tiên được nhắm vào đứng trước mắt. Mỗi khi bước vào, anh ta lại nhấn phải cái cốc lên đầu nạn nhân rồi đẩy chúng ra khỏi cửa hàng. Đây chính là cách làm việc của chị Sáu Úc, người quản lý tại hội phụ nữ. Một ngày, khi trở về với túi gạo, dòng sông Trà Ly đã dâng lên quá cao, cuốn chị và túi gạo đi xa. Cả nhà tìm kiếm suốt hai ngày nhưng không thấy, họ đã tổ chức lễ tang cho chị. Trong lúc đó, chị quay trở về, ướt sũng, đứng ở mé đường trông vào nhà, tưởng rằng ai đó mới mất, rồi khóc lớn. Cả nhà quay trở lại, hò lên, trong khi đang khóc, họ bỗng xông đến đấm vào lưng chị đồng thời cười khúc khích. Đó chính là anh Tám Nghề, công tác tại cơ quan vận tải quân đội. Một lần, khi quân địch bao vây, mọi người trốn vào rừng sâu, đói khát. Buổi tối, anh bò giữa đầu giặc để hái sắn. Khi anh trở về với bao sắn nặng, anh vấp phải đá tạo ra tiếng động. Một gã giả vờ ngồi dậy, kiểu như đang ngủ gật, bất ngờ hỏi: “Ai đó đây”. Anh nói: “Ông tổ nội mày đây” rồi cười tươi và nhanh chóng chạy vào rừng, không màng đến việc bị bắn đuổi. Sau đó, Ba sẽ kể thêm rằng: khu vực đó có rất nhiều con hổ, mặc dù Ba chưa bao giờ thấy. Mỗi đêm, chúng gầm lên, núi đá lòi ra vài lần như bị máy bay B-52 đánh bom. Một lần, khi bước ra khỏi cửa hàng, anh gặp một con hổ lớn hơn cả con bò, Ba nổ một phát súng, hổ bị gãy chân, sau đó bỏ chạy, đẩy ngã tảng đá cỡ nhà. Một con trăn lớn nổi sóng làm cho nước sông Trà Ly trước cơ quan Ba ồ ạt chảy. Nhưng Ba và chị Bốn đã dùng một sợi dây từ sắn cột chặt nó, kéo về và nấu cháo để nuôi cả cơ quan trong vài ngày. Bạn bè khi nghe câu chuyện sẽ rất khâm phục Ba. Thằng Thấn nhất định sẽ ngạc nhiên, chặc lưỡi, vỗ đầu vì không biết những câu chuyện đặc biệt như Ba. Còn con Một thì không cần phải nói. Mỗi khi Ba kể từng chi tiết, nó sẽ ngạc nhiên đến kinh ngạc, mắt sáng lung linh. Ba thoáng cảm thấy buồn cười trước sự khâm phục của bạn bè, mà Ba đã tưởng tượng ra. Cuối cùng, Ba cười thật. Ba mỉm cười một mình trước những gì đã xảy ra. Sau đó, Ba nhanh chóng ngủ thiếp… Dòng sông Trà Ly bất ngờ sôi lên, đổ dồn qua con thác gần bếp ăn của cơ quan. Ba cảm thấy mình ngâm mình trong dòng nước mát, tận hưởng việc tắm sau hai ngày đi về. Chị Bốn nhanh chóng nhắc Ba tắm sạch để chuẩn bị cơm cho chú Chín. Khi đang mang tô cơm, Ba vấp phải hòn đá, đưa tô cơm rơi đất, ông nội hiện lên cảnh báo: “Những kẻ vụng về, họ ghét lắm đấy”. Chính lúc đó, tiếng “á” vang lên khi một quả bom từ máy bay OV-10 bắn xuống bên kia bờ sông Trà Ly, khi thấy chị Bốn cầm một quả măng. Máu đỏ… Khi Ba tỉnh dậy, mặt trời đã lặn, chỉ còn lại một vệt sáng đỏ trên dãy núi về phía căn cứ. Ba nhảy ra sân, vươn vai vài cái rồi như thường lệ, Ba đi vòng quanh sau nhà, đuổi lên cồn Quy. Standing here, Ba có thể nhìn toàn bộ vùng đất rộng lớn trong xã. Hòn cồn giống như chiếc mai rùa, chia xã thành hai phần. Phần phía nam là cánh đồng cát kéo dài từ mé đường tỉnh lộ (là biên giới phía tây của xã với các xã khác) xuống phía đông, sát với một làng hoang mà người địa phương gọi là Cô Sơn. Phía bên kia cánh đồng là dòng sông Bãi Dài, làm biên giới phía nam của xã với các xã khác, đầy những con kênh nhỏ, ánh nắng chiếu sáng đổ về phía biển. Ở nửa xã phía bắc, xen giữa những xóm làng xanh biếc rợp bóng dừa là những hòn cồn cát lớn nhỏ. Không biết từ khi nào, có lẽ người ta đặt tên theo hình dáng hoặc các nhà ở gần, chúng mang những cái tên như cồn Kinh, cồn Nhà Lập, cồn Thằn Lằn, cồn Du. Trên một số hòn cồn cát đó, người Mỹ đã xây dựng các ngôi nhà tôn, các trạm canh. Mỗi chiều, chúng bắn pháo sáng với âm thanh “phụp phụp” và sau đó là tiếng nổ lớn. Xa xa, sau những làng xóm, năm ngọn núi của cụm Ngũ Hành Sơn nhô lên như năm tòa nhà in lên bầu trời chiều tím. Trước đây, Ba cùng bạn bè leo lên núi Non Nước (một núi trong Ngũ Hành Sơn) thăm chùa hoặc chơi trò trốn tìm trong các hang đá vôi, hoặc cùng nhau nhảy xuống biển gom quả bưởi non. Ba cùng bạn bè giả vờ mang lễ vật lên chùa hoặc mang vũ khí cho đơn vị anh Phan Hành Sơn để tiêu diệt đại đội Mỹ trên đỉnh núi. Bây giờ, các pháo Mỹ đứng thẳng tắp trên đỉnh núi đưa nhìn như những quái vật khổng lồ. Thỉnh thoảng, chúng giơ cổ dài ra và kêu rền ầm ầm. Một rừng dương như một bức tường xanh chạy.Chuyển từ Đà Nẵng sang Hội An, cảm giác như mặt biển đang chơi trò trốn tìm, cứ dâng lên rồi im lặng. Ba thì nhìn mọi ngóc ngách xã, sau đó tháo áo, vắt vai, buộc cánh tay và ngồi xuống cát, nhìn ra biển để hít thở làn gió biển mát lạnh. Bất ngờ, Ba đột nhiên đứng dậy, như lắng nghe theo một cách nào đó, như vừa có ai gọi tên mình. Làn gió mát vừa thổi qua mang theo mùi hương nhẹ nhàng, như mùi đào chín dưới ánh nắng gay gắt của ngày hè. Có một điều gì đó, rất thân quen nhưng cũng mới lạ, như lời mờ mo ở đâu đó, khiến ta phải tìm kiếm để tìm hiểu. Ba hít mạnh hơi thở, rồi chợt nhận ra đó chính là hương của hoa dủ dẻ, loài hoa nhỏ nhắn mọc trên cây, với lá dày và cứng, rễ chìm sâu vào cát nóng bỏng của quê hương… “Này cậu, mày về lúc nào?” – Một giọng nói quen thuộc vang lên phía sau Ba. Ba quay lại thì thấy một anh chàng thấp to, đôi tay săn chắc như sợi chuối, buột dáng bên cạnh một cô gái nhỏ nhắn, mái tóc dài rậm. Dường như hai người này không hợp nhau chút nào. Nhưng họ lại yêu nhau. Đó chính là Bảy Kim và Hai Soan. Bảy Kim đã qua tuổi ba mươi nhưng vẫn chưa lập gia đình, anh ta không thích bị gọi là “chú” mà muốn được gọi là “anh”. Bảy Kim là xã đội phó quả quyết nhưng Ba lại không hề ưa thích. Có lẽ anh ta hay trêu chọc và ghẻ lạnh Ba cũng như các bạn. Mỗi khi đi tắm biển, bất cứ khi nào thấy Bảy Kim xuất hiện, bọn trẻ sẽ vui vẻ bỏ chạy. Anh thường đứng từ xa nhìn bọn trẻ, biến mất giữa những đợt sóng, rồi đột ngột hiện lên cạnh một đứa trẻ, kéo chân nó, đặt nó lên vai rồi cười đùa. Ba trả lời với vài từ cộc lốc: “Vừa mới về thôi.” “Mày biết chuyện gì đang xảy ra trong nhà mày chưa?” – “Chưa. Mình mới về đây mà mà.” Anh ta cười hồ hởi: “Nhà mày đúng là nhiều phúc. Chồng mất, cha bị bắt, vợ lại phải đi làm mại dâm ở Đà Nẵng…” Anh ta cười toe toét, rồi kéo Hai Soan theo mình về phía rừng dương liễu. Ba muốn chạy theo để tìm hiểu rõ hơn về sự việc nhưng có một thứ gì đó làm Ba ngã ngọn chân xuống cát. Giọng cười trêu chọc của Bảy Kim khiến Ba cảm thấy buồn bã và xấu hổ. Khoảng sáu tháng trước, vào một ngày cuối năm 1968 đầy mưa, cha của Ba, xã đội trưởng nổi tiếng, đã hy sinh. Mọi thứ trong nhà Ba, mà suốt thời gian dường như êm đềm, bỗng nhiên bị xáo trộn. Mẹ Ba trở nên uể oải, khóc suốt ngày. Bất ngờ, mẹ cấm Ba không được tham gia vào các hoạt động của tổ du kích thiếu niên nữa. Mẹ nói với Ba: “Con ơi, nơi lửa, có ngày cũng bị lửa thiêu. Mẹ đã một mình nuôi con từ bé, con hãy ở nhà, đừng tham gia vào những việc nguy hiểm.” Mẹ đã trò chuyện với chú Năm Hà, Bí thư xã và chị Bảy, người phụ trách đội, yêu cầu không để Ba tham gia vào những hoạt động “nguy hiểm” nữa. Mẹ đã thuyết phục ông nội để Ba đi đến Đà Nẵng để có thời gian bình yên. Nhưng ông nội lại nghiến răng: “Cả đám trẻ ở đây hết chết hay sao mà cô lo quá?!” Mẹ người lên tiếng nhẹ nhàng: “Nhà người ta có nhiều con cháu, còn nhà chú đây chỉ có mỗi đứa cháu duy nhất thôi, người ta suốt ngày thấu hiểu con…” “Lời thì hay quá, tao không muốn chú nó thành người hèn nhát!” Ông nội quay sang hát:Người nào quẹo quẳngĐứa nào quẹo quẳngHọ chẳng ưa đâuHát xong, ông nội gọi Ba: “Cô nghĩ cô có thực xứng đáng không, vậy cô thử nhìn vào mắt ông xem!” Ba bước tới, nhìn ông, rồi nhìn mẹ đang khóc, lúng túng không biết phải làm sao. Một ngày nọ, khi ông nội đi ăn giỗ ở Hội An, Ba cùng các bạn trẻ trở về nhà và bắt gặp một người lạ ngồi uống nước với mẹ. Mẹ chỉ Ba và nói với người đó: “Đây là con tôi, anh Đức ạ.” Rồi mẹ quay lại Ba: “Hãy chào anh đi con.” Người kia mỉm cười: “Nghe nói em muốn gia nhập quân đội đúng không?” “Dạ, em muốn. Em thích lắm. Nhưng em sợ mẹ không đồng ý.” Khi thấy mẹ cười, Ba châm chọc: “Em sợ Đội không nhận.” “Nếu mẹ em đồng ý thì mẹ sẽ để em đi. Còn Đội, chú se mai mọi với các anh chị. Chú cần một người như em.” Ba rất vui sướng. Ước mơ lâu nay của Ba là được gia nhập quân đội để trả thù cho cha giờ đã thành hiện thực. Ba nhanh chóng lao ra khỏi nhà, đến cồn Quy, rồi rễ chạy vào xóm tìm bạn bè. Lúc ấy, trước mắt Ba, đột nhiên xuất hiện một chàng trai giống Ba, nhưng oai vệ hơn, trong trang phục quân giải phóng, với khẩu súng ở đeo vạch ngực.Trong câu chuyện “Cát Cháy” của tác giả Thanh Quế, chúng ta được dẫn nhập vào một thế giới đầy nhiệt huyết của anh hùng và đấu tranh. Truyện kể về những hành động gan dạ của những người lính dưới bóng đạn, những tình huống ly kỳ và xúc động đến rơi nước mắt. Nhân vật như anh Phan Đình Giót và thằng Tượng sẽ là những người bạn đồng hành đáng tin cậy trên hành trình đầy thử thách. Hãy đồng hành cùng họ qua từng trang sách đầy hấp dẫn và sâu sắc!