Đây là một cuốn sách mới thú vị về quan hệ giữa người Việt và người Chăm. Cuốn sách khám phá sự xen kẽ và tương tác giữa hai nền văn hóa Việt – Chăm qua các khía cạnh như ngôn ngữ, hôn nhân, trang phục và lối sống.
Tác phẩm này là kết quả của một công trình nghiên cứu kỹ lưỡng về bản sắc văn hóa Quảng Nam trong mối liên kết chặt chẽ với văn hóa Chăm. Nội dung của cuốn sách chủ yếu tập trung vào các vấn đề như sự thật về “Nam tiến”, sự biến đổi văn hóa Quảng Nam theo lịch sử, và việc ngôn ngữ tại Quảng Nam được coi như là ngôn ngữ của người Chăm nói tiếng Việt.
Với 260 trang, tác giả Hồ Trung Tú thể hiện sự suy tư và chăm chỉ trong việc tìm hiểu nguồn gốc và bản sắc của mình cũng như cư dân tại vùng đất Quảng Nam, Bình Định, Phú Yên.
Cuốn sách đưa ra một cách phân tích để giải thích ý nghĩa và ảnh hưởng của từng giai đoạn trong quan hệ Việt – Chăm qua suốt 500 năm (từ 1306 đám cưới Huyền Trân đến 1802 khi Gia Long lên ngôi). Một ví dụ thú vị là mối quan hệ đầy bí ẩn giữa Việt – Chăm trong thời kỳ nầy, không giống như cách ta thường nghĩ về mối quan hệ giữa các dân tộc.
Cuốn sách khám phá những dấu vết văn hóa của Chămpa trong cuộc sống của người Quảng Nam, từ các đền tháp Chàm, những lễ hội phong tục đến giọng văn hóa đặc trưng.
Là một tác phẩm mang tính chất tìm hiểu sâu rộng về quá khứ, “500 Năm Quan Hệ Việt – Chăm” chắc chắn sẽ là một nguồn tư liệu hữu ích và thú vị cho bất kỳ ai quan tâm đến lịch sử và văn hóa dân tộc Việt Nam.Khi tất cả các gia phả của các dòng họ đều ghi rõ rằng thủy tổ của họ là người Nghệ An, Thanh Hóa, Hải Dương… vào đây. Giáo sư Trần Quốc Vượng bảo: “Thì các cụ vào đây đâu có đem vợ con đi được nên lấy vợ Chàm rồi sinh con đẻ cái là cái chuyện hết sức bình thường, vấn đề là các bà mẹ Chàm nói tiếng Việt ấy đã truyền lại cho con cái mình cái giọng của người Chàm nói tiếng Việt. Cái giọng đó chính là giọng Quảng Nôm nhà cậu”(2). Bằng chứng về cái chuyện trai Việt lấy gái Chàm thì nhiều lắm: Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Xuân hay nói về hình ảnh ông Ba Bị của vùng Quảng Bình, Quảng Trị. Hồi đó các cụ nhà ta đi vào Nam vợ con tất cả đều phải để lại chỉ mang theo một đứa con trai. Một bị cõng con, một bị lương thực và một bị quần áo. Cái hình ảnh của những đoàn người ra đi vào Nam khắc khổ và lặng lẽ ấy đủ sức dọa bất cứ đứa trẻ khóc dai, khó bảo nào. Vào đây những đứa con trai ấy lớn lên lấy ai làm vợ nếu không phải là các cô gái Chàm? Suy luận logic là vậy, thế nhưng chúng ta vẫn có được một bằng chứng khá hay ngay trong Sử ký Toàn thư, đó là Chiếu dụ của vua Lê Hiến Tông năm 1499 (28 năm sau khi Lê Thánh Tông bình Chiêm): Kể từ nay, trên từ thân vương, dưới đến dân chúng, đều không được lấy đàn bà con gái Chiêm Thành làm vợ, để cho phong tục được thuần hậu(3). Dĩ nhiên lấy đó làm bằng chứng người Việt không lấy vợ Chàm thì thật ngớ ngẩn, đó chẳng qua là vì người ta lấy vợ Chàm quá nhiều, thành phong trào từ thân vương đến dân đen, nên mới có cái chiếu dụ như thế!Trước đó năm 1403, dưới triều Hồ Hán Thương đã phát động nhiều đợt di dân vào vùng Quảng Nam lập nghiệp. Triều đình tổ chức cho thuyền chở phụ nữ vào làm vợ cho những di dân nhưng giữa đường bị bão đánh, tất cả đều bị chìm chết!(4) Ý định tạo những dòng họ thuần Việt bất thành! Thế thì hóa ra tất cả những người Quảng Nam hiện nay đều mang trong người năm mươi phần trăm dòng máu của người Chàm? Và còn hơn thế nữa họ đang nói tiếng Việt bằng giọng Chàm! Dĩ nhiên sự kiện này không đại diện được cho cả 500 năm hình thành bản sắc Đàng Trong, thế nhưng nó cũng cho thấy ngay từ đầu ý thức “Đại Việt”, một cái gì đó “thuần Việt” cũng đã hình thành và ít nhiều nó cũng đã định hình một thái độ thiếu bình đẳng với người bản địa; điều đó không khỏi tác động đến sự xung khắc khi hai cộng đồng người sống cạnh nhau kéo dài nhiều trăm năm sau đó.Ở Quảng Nam nhiều người vẫn bảo giọng nói khác nhau là bởi nước uống. Có làng như làng Thanh Quýt, chỉ một con đường làng không vừa lối cho một chiếc xe bò nhưng bên này đường thì nói mô, tê, răng, rứa còn bên kia đường thì đâu, kia, sao, dậy… Giọng nói của người Quế Sơn, Tiên Phước thì khác xa lắm với giọng nói của người Đại Lộc, Điện Bàn, Hội An. Ngay ở Đà Nẵng mà người “bên tê sông” bao gồm bốn phường: Nại Hiên Đông, Mân Thái, Thọ Quang, An Hải Tây vẫn giữ cái giọng nói không giống với bất cứ cái giọng nói nào của người Quảng. Tại sao thế? Do nước uống chăng?Trong 500 năm từ 1306-1802, đối với người Chàm ở lại thì kinh đô đã dời vào Đồ Bàn. Hệ thống hành chính, chính trị coi như không còn nhưng điều đó đối với đa số nhân dân là chuyện xa lạ. Họ vẫn ở lại với những làng Chàm của họ. Người Việt đến cũng quần cư trong những ngôi làng Việt mới mở. Có thể là làng này cách làng kia chỉ một con đường làng nhỏ. Có thể là bên này áo dài khăn đóng, bên kia là sa-rông khăn vấn. Có thể là bên này kiêng thịt bò còn bên kia thì mỗi lần mổ bò lại trống chiêng inh ỏi. Có thể là bên này bảo Siva mới là chúa tể của tất cả, còn bên kia thì cãi, không, Ngọc Hoàng Thượng Đế mới là trên hết. Có thể là họ lườm nhau, nguýt nhau, cãi nhau suốt 500 năm như thế. Biết làm sao được, đó là cuộc va chạm giữa hai nền văn minh khổng lồ của nhân loại là Ấn Độ và Trung Hoa. Và phải chăng cú va chạm nảy lửa ấy vẫn còn để lại dấu vết đâu đó trong tâm hồn người Quảng Nam? Họ như luôn phải khẳng định một điều gì đó, trung thành với một niềm tin nào đó. Không thế họ không sống được, họ như cảm thấy thất bại và không tồn tại. Phải chăng họ hay cãi cũng vì thế? Biết làm sao được, họ đã cóMột cuốn sách với cả một lịch sử dài lên tới 500 năm để thảo luận về việc này! Trong thế kỷ XVI, hình ảnh về người dân Chàm và Việt đã được ghi lại rõ nét. Một người Anh đã minh họa hình ảnh này trong một bức tranh thể hiện nhóm người An Nam ở một làng gần vịnh Đà Nẵng vào cuối thế kỷ XVIII, với trang phục độc đáo. Có lẽ Nại Hiên Đông, Đà Nẵng vẫn giữ nguyên truyền thống mặc trang phục Chàm đến thời kỳ này. Liệu họ có nói tiếng Chàm không? Câu trả lời vẫn còn bí ẩn, nhưng điều này có thể giải thích vì sao ngôn ngữ địa phương vẫn giữ được nét đặc trưng đến ngày nay.
Tại Thanh Quýt, Tiên Phước, Quế Sơn, tình hình cũng tương tự: một số làng Chàm tiếp tục giữ nguyên ngôn ngữ Chàm, chậm nhất vào cuối thế kỷ XVIII, không phải tất cả đã chuyển sang sử dụng tiếng Việt từ thời điểm nào đó như người ta vẫn cho là đúng. Quả thật, chúng ta không nên quá cứng nhắc trong việc đánh giá tính cách của người Quảng Nam và phải tìm hiểu sự phong phú, đa dạng của vùng đất nguyên quê. Được biết những cơ sở lịch sử, văn hóa của mỗi địa phương là điều không thể bỏ qua, chúng giúp làm sáng tỏ bản sắc, đóng góp vào sự phát triển của vùng đất và cả đất nước.
Với phương pháp phân kỳ lịch sử Nam tiến, chúng ta có thể đào sâu vào các sự kiện và thời kỳ quan trọng, xác định thời lượng mỗi giai đoạn để hiểu rõ sự tương tác văn hóa và hình thành tính cách ổn định qua các thế hệ. Phương pháp này không hoàn toàn mới, nhưng nhấn mạnh vào quãng thời gian giữa các sự kiện quan trọng, điều rất cần thiết để hiểu được sự phát triển ổn định của văn hóa và tính cách cộng đồng.
Ví dụ, 300 năm chí ít là 12 thế hệ, một khoảng thời gian đủ đáng kể để hình thành nền văn hóa châu Mỹ La Tinh độc đáo từ ba nền văn hóa khác nhau. Cần phải suy ngẫm và đặt câu hỏi: Những người con sau này có hiểu rõ nguồn gốc của mình hay không? Những tương tác lịch sử quan trọng này luôn cần được xem xét kỹ lưỡng để hiểu rõ hơn về tiến trình hình thành lịch sử của một dân tộc.Khi nghiên cứu lịch sử Đàng Trong, chúng ta đã khám phá ra rằng không phải 300 năm như ta ban đầu nghĩ mà thực sự là 500 năm (1306-1802) để hoàn tất một quá trình hòa nhập phức tạp. Ví dụ, việc xây lũy Trường Dục dưới thời Chúa Nguyễn đã đóng vai trò quan trọng như thế nào trong lịch sử? Đây không chỉ là một chiến lũy phòng thủ nội bất kể nước ngoài xâm nhập, mà còn là dấu mốc chấm dứt các cuộc di dân. Sự cắt đứt này đã tạo ra sự đa dạng văn hóa mới trong khu vực, và kéo dài đến khi Nguyễn Huệ thống nhất đất nước vào năm 1786.
Khi tiếp cận các tư liệu lịch sử của Đàng Trong, chúng ta cần thấy rằng sự hiếm hoi của thông tin đã khiến cho việc tìm hiểu trở nên khó khăn. Tuy nhiên, với cái nhìn phân kỳ, chúng ta có thể tìm ra những dấu vết quan trọng trong quá khứ dài lịch sử 500 năm của vùng này. Việc này sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về sự phát triển của xã hội, văn hóa và lịch sử Đàng Trong.
Những giai đoạn lịch sử này đã tạo ra những bức tranh rõ nét về cuộc sống và tình hình chính trị của người dân Đàng Trong. Chúng ta không thể phủ nhận tầm quan trọng của việc tìm hiểu và hiểu biết đúng đắn về quá khứ để hiểu rõ hơn về hiện tại và tương lai của vùng đất này.Trong cuốn sách này, chúng ta sẽ khám phá về lịch sử Nam tiến một cách chân thực và chi tiết mà không lãng mạn hóa. Các tài liệu được sử dụng rất đa dạng, tuy nhiên không có tài liệu nào được coi là “chính thống”, quan trọng nhất là chúng thể hiện toàn bộ 500 năm của sự hòa hợp văn hóa. Chúng ta sẽ không chỉ lặp lại sự kiện lịch sử mà còn tìm hiểu sâu về chúng, nhằm hiểu rõ hơn về bản sắc của người Quảng Nam và vùng Đàng Trong nói chung.
Cuốn sách chứa rất nhiều thông tin hấp dẫn và được nghiên cứu kỹ lưỡng, từ lịch sử Chămpa, lịch sử Đàng Trong đến nghiên cứu về chính trị, xã hội của các nhà nghiên cứu như Maspéro, Phan Khoang, và Li Tana. Chúng ta sẽ không bị hạn chế bởi tài liệu, mà sẽ đưa ra những giả thuyết dựa trên lập luận logic, nhằm mở rộng tầm nhìn và xem xét các vấn đề một cách sâu sắc hơn.
Đọc cuốn sách này, chúng ta sẽ khám phá những diễn biến lịch sử trong quá trình Nam tiến của dân tộc trên vùng đất Quảng Nam một cách sâu sắc và dễ hiểu. Cuốn sách thực sự là một tài liệu quý giá để tìm hiểu và khám phá về bản sắc lịch sử của dân tộc và vùng đất này. Hãy cùng đọc và khám phá “Có 500 Năm Như Thế” của tác giả Hồ Trung Tú.