Cuốn sách “Đám Đông Cô Đơn” đã tồn tại và vẫn giữ nguyên sức mạnh của nó trong hơn 60 năm, vẫn là một nguồn tài liệu quý giá về việc hiểu biết về xã hội và tâm lý con người. Tác giả David Riesman đã sắc bén phân tích sự biến đổi trong tính cách của con người từ việc nội tại định hướng sang ngoại tại định hướng, đặc biệt trong bối cảnh chuyển dịch xã hội của nước Mỹ vào giữa thế kỷ 20.
Cuốn sách không chỉ tập trung vào nghiên cứu về xã hội Mỹ mà còn đặt ra những vấn đề phổ quát về con người và xã hội trong kỷ nguyên toàn cầu hóa hiện nay. Việc nhận diện sự cô đơn và khao khát tự do và hạnh phúc của con người là một chủ đề không bao giờ lỗi thời, và những bài học từ cuốn sách vẫn luôn có giá trị và ý nghĩa.
“Đám Đông Cô Đơn” không chỉ là một cuốn sách giúp chúng ta hiểu sâu hơn về xã hội mà còn là một lời nhắc nhở về tầm quan trọng của việc tìm kiếm sự tự do và hạnh phúc trong cuộc sống. Cuốn sách này tiếp tục đóng vai trò là một nguồn cảm hứng và tri thức quý giá cho độc giả muốn khám phá và hiểu biết về thế giới xung quanh mình.
Mời các bạn đọc cuốn sách Đám Đông Cô Đơn của tác giả David Riesman
—-
Lời giới thiệu – Todd Gitlin
Vào cái thời người ta thấy sách như những món đồ cổ quái nằm bên rìa ngành kinh doanh giải trí, có lẽ chúng ta thấy khó mà nhớ lại rằng, ở Mỹ, đã từng có lúc sách dẫn dắt các cuộc đàm luận tầm cỡ quốc gia. Đôi khi sách ảnh hưởng trực tiếp tới lịch sử. Cuốn tiểu thuyết gây tranh cãi của Upton Sinclair năm 1906, The Jungle (Chốn hỗn độn),[1] đã khích động tình cảm công chúng nhằm ủng hộ Đạo luật về thực phẩm sạch và chất gây nghiện.[2] Vào thập niên 60, những cuốn The Other America (Một nước Mỹ khác), Silent Spring (Mùa xuân chết), The Feminine Mystique (Bí ẩn nữ giới), và Unsafe at Any Speed (Không an toàn ở mọi tốc độ) đã giúp khởi động các phong trào chống đói nghèo, phong trào môi trường, phong trào nữ quyền, phong trào người tiêu dùng, và những cuốn sách có tinh thần cải cách dè dặt sau đó, nhất là Fixing Broken Windows (Sửa lại những ô cửa sổ vỡ) của George L. Kelling và James Q. Wilson, cũng có một ảnh hưởng tương đương.
Nhưng những khảo luận thiết thực nhiệt tình ủng hộ các phong trào không phải là những cuốn duy nhất có giá trị trong đời sống cộng đồng. Đôi khi sách có tầm quan trọng không phải nhờ thúc giục hành động mà nhờ nhận ra những khuôn mẫu, đưa ra những lý giải lớn lao về đời sống, định danh những thứ mà, khi sách chưa ra đời, bất quá chỉ là trực giác hoặc những cảm nghĩ tản mạn. Một cuốn sách nghiêm túc ra đời, đúc kết một nỗi lo sợ, một hiểu biết, hoặc một niềm hy vọng thành một tư tưởng lớn, một lối giải thích thực tại có ảnh hưởng sâu rộng gõ đúng tâm thức tập thể trong một bộ phận đông đảo quần chúng.[3] Như trường hợp của The Road to Serfdom (Đường về nô lệ) của Friedrich van Hayek (1944), Capitalism and Freedom (Chủ nghĩa tư bản và tự do) của Milton Friedman (1962), và Losing Ground (Thất thế) của Charles A. Murray (1984), một cuốn sách có thể trở thành cái thúc đẩy dẫn đến một bước ngoặt tư tưởng lớn lao. Trong trường hợp Understanding Media (Hiểu về truyền thông) (1964) của Marshall McLuhan, cuốn sách có thể đem lại cho chính phương tiện truyền thông đại chúng một vốn từ tự nhận thức. Đáng quý nhất là cuốn sách có thể thấu hiểu tâm thức chung sâu sắc đến mức những gì nó thấy trở thành khuôn mẫu, sự sáng suốt của nó trở nên có tính quy ước – mượn một cụm từ được tạo ra trong một cuốn sách như vậy, The Affluent Society (Xã hội sung túc) (1958) của John Kenneth Galbraith.
Cách đây nửa thế kỷ, Nhà xuất bản Đại học Yale công bố ấn bản lần thứ nhất The Lonely Crowd (Đám đông cô đơn) của David Riesman, đồng tác giả với Nathan Glazer và Reuel Denney, một cuốn sách đã đóng góp những cụm từ mang tính khái niệm vào vốn từ vựng Mỹ.[4] Trọn vẹn chủ đề cuốn sách nói về sự thay đổi lớn lao trong tính cách người Mỹ: khi nước Mỹ đang chuyển dịch từ một xã hội do các mệnh lệnh sản xuất điều khiển sang xã hội do các mệnh lệnh tiêu dùng điều khiển, tính cách các giai tầng trung lưu lớp trên trong xã hội đó biến đổi từ kiểu “nội tại định hướng” (“inner-directed”), những người từ thuở bé đã bản chất hóa các mục tiêu – mà về cơ bản là do người lớn “cấy cho” – thành những người do “ngoại tại định hướng” (“other-directed”), “nhạy cảm trước những kỳ vọng và ý thích của người khác”. Theo phép ẩn dụ tuyệt vời của Riesman thì đây là bước chuyển dịch từ đời sống được con quay hồi chuyển nội tại dẫn dắt sang đời sống được rađa dẫn dắt. Lớp trẻ Mỹ không còn để tâm mấy đến uy quyền của người lớn nhưng lại cực kỳ nhạy cảm với những nhóm ngang hàng[5] và bị truyền thông đại chúng điều khiển. Người cha vẫn được tiếng là hiểu biết hơn cả, nhưng nếu đúng thế thì càng ngày càng vì lẽ là có một chương trình truyền hình đã nói như vậy.
Theo một khảo sát năm 1997 của Herbert J. Gans, Đám đông cô đơn tiếp tục là cuốn sách của một nhà xã hội học ăn khách nhất trong lịch sử nước Mỹ: nó bán được 1,4 triệu bản, phần lớn là ấn phẩm bìa mềm.[6] (Loại sách bìa mềm bỏ túi có nội dung rút gọn đầu tiên là một trong những thứ đầu tiên hưởng lợi nhờ trào lưu ấn bản sách bìa mềm cho thị trường đại chúng.) Suốt nhiều năm, cuốn sách đã làm cho cụm từ “nội tại định hướng” (“inner direction”) và “ngoại tại định hướng” (“other direction”) trở thành thuật ngữ dùng trong gia đình, là thứ bánh vừa nhâm nhi vừa trò chuyện ở tiệc cocktail. Cuốn sách được các sinh viên cấp tiến đang tiến thân đọc, những người này suy diễn thái quá về việc tìm kiếm tính độc lập (autonomy) trong cuốn sách, họ cho rằng tác giả muốn giáng một đòn mạnh vào sự tuân thủ quy tắc xã hội, trong khi thực ra Riesman chỉ đang cố vạch rõ rằng xã hội nào cũng bảo đảm “một mức độ tuân thủ nào đó từ những cá nhân hợp thành xã hội ấy”, vấn đề là nó bảo đảm sự tuân thủ không thể tránh được đó như thế nào. Trong những năm 1960, Đám đông cô đơn được xem là một cảnh báo về cảm giác lạc lõng mà rồi sẽ dẫn đến nổi loạn vì sự quá sung túc. Cụm từ nhan đề thậm chí còn xuất hiện trong một bài hát của Bob Dylan năm 1967: “Tôi sẽ được tự do”. Đến khi viết lời tựa cho ấn bản năm 1969, Riesman đã lấy làm tiếc rằng “Đám đông cô đơn đã góp phần sinh ra sự khinh khi trịch thượng đối với các ngành nghề kinh doanh”.
Những tán thưởng, sự đón nhận nồng nhiệt của công chúng, ấy là chưa nói đến ngộ nhận, thảy đều khác xa những kỳ vọng ban đầu. Trong lần xuất bản năm 1950, cuốn sách được chào đón bằng những bài phê bình trân trọng nhưng thường đăng trên các tạp chí chuyên môn. Khi sách được phát hành ở dạng bìa mềm với nội dung được giản lược ba năm sau đó, Riesman và Nhà xuất bản Đại học Yale những tưởng sách sẽ chỉ bán được “vài nghìn bản dưới dạng tài liệu đọc trong các khóa khoa học xã hội”. Vậy mà sách lại nổi tiếng. Tại sao? Nhìn nhận lại một cách chính xác, ta có thể thấy cuốn sách đã đồng cảm phơi bày những khắc khoải của một tầng lớp trung lưu đang nổi lên cùng với sự phát triển tăng vọt thời hậu chiến, họ mở rộng ngoại ô, mải lo thu vén sao cho nhà cửa, máy móc, địa vị của mình ngày một tốt hơn, họ nhẹ nhõm vì qua được cuộc Đại Suy thoái và chiến tranh nhưng lại hoang mang trước những biến động văn hóa và tâm lý bên dưới bề mặt đời sống thường nhật.
Điều không kém phần quan trọng là Đám đông cô đơn không hề có các biệt ngữ (trong khi vô tình lại đóng góp kiểu văn phong đố vui, có hai lựa chọn thế-này-hoặc-thế-kia vào vốn từ của một nền văn hóa vốn ưa thích những phạm trù lưỡng cực, ví dụ như hướng nội/hướng ngoại, tân thời/cổ lỗ, thứ yếu/chủ yếu). Ngày nay, sách báo xã hội học có cả sức hút công chúng của sinh học phân tử, sau khi về cơ bản đã có tiếng là món chuyên biệt dành cho các chuyên gia tính toán và những kẻ màu mè giả hiệu khoa học khác. Đám đông cô đơn thì khác xa, được viết sáng sủa, thêm cái tài dùng những cụm từ hóm hỉnh như: “người dự đoán nội tình” (inside-dopester), “ngọn roi ngôn từ”, “từ bàn tay vô hình đến bàn tay niềm nở”, “từ tài khoản ngân hàng đến tài khoản chi phí”, “những con bệnh có thể đi lại được trong khu văn hóa hiện đại”, “thị trường tình bạn”, “thăm dò lĩnh vực tình dục”, “nệm êm sung túc”, “mỗi cuộc đời là một ca cấp cứu”. Cuốn sách mang giọng điệu khiêm nhường, cởi mở, tò mò muốn tìm hiểu mọi thứ, và nhạy cảm về các kiểu có thể nhận diện. Mặc dù đòi hỏi đối tượng độc giả nghiêm túc, và ít khi viết bằng những lời lẽ châm biếm kêu tai, cuốn sách âm vang một giọng người dễ chịu, lúc huyên thuyên lúc thô vụng dễ gần, vừa thanh nhã vừa nồng ấm, vừa đậm sắc thái vừa thông tục, vừa nghiêm trang vừa thân tình, nhưng luôn luôn dung dị và hóm hỉnh. Khác với hầu hết các khảo luận hàn lâm, cuốn sách không sa lầy trong định nghĩa dài dòng văn tự. Đó là cuốn sách của một công dân biết cảm thông chia sẻ, muốn khuyên nhủ xã hội chứ không phải dạy đời.[7] Cuốn sách nói trực tiếp với người dân – chủ yếu là dân Mỹ, nhưng không chỉ với họ – những người được cuốn sách quan tâm và bàn đến. Cuốn sách vừa trừng phạt lại vừa xót xa cho người Mỹ, nhưng ngay cả khi trừng phạt thì nó cũng trấn an người đọc rằng người ta không quá đơn độc trong những khắc khoải của mình như họ vẫn tưởng. Người ta đọc cuốn sách mà có thể an lòng là mình đã được nhận diện. Lối nói với [ai đó] thay cho về [ai đó] trong nửa thế kỷ qua đã thoái hóa thành lối tự lực (self-help), phải trả giá bằng tính nghiêm túc trí tuệ, nhưng Đám đông cô đơn là bằng chứng cho thấy có thể hướng sự phân tích thông minh đến độc giả thông minh mà không khắt khe xem họ như những người tự hoàn thiện vị kỷ.
Tính dễ tiếp cận không hẳn là độc quyền của xã hội học vào những năm đó. Trong thập niên 1950, ngay cả các tạp chí chuyên ngành cũng viết để ai có học hành tử tế đều đọc được; sách của C. Wright Mills[8] cũng nằm trong danh sách sách bán chạy nhất. Đám đông cô đơn được ưa chuộng hẳn phần nào còn do phương pháp linh hoạt mà cuốn sách sử dụng trong suốt quá trình thu thập bằng chứng, trong khi điểm qua nào tiểu thuyết, nào sách thiếu nhi, phim ảnh và nghiên cứu nhân học. Mặc dù Riesman và Nathan Glazer đồng thời tiến hành phỏng vấn chính thức, nhưng Riesman khẳng định rằng ông chỉ dựa vào đó ở mức độ không đáng kể; rằng Đám đông cô đơn “dựa vào kinh nghiệm chúng tôi sống trên đất Mỹ – những người chúng tôi đã gặp, công việc chúng tôi đã làm, sách chúng tôi đã đọc, phim chúng tôi đã xem và cả phong cảnh chúng tôi đã ngắm nữa.”[9]
Mặc dù xuất bản cuốn sách khi truyền hình hãy còn là một phương tiện truyền thông non nớt, Riesman rất chú trọng đến thực tế rằng người Mỹ đã lao đầu xuống bể truyền thông đại chúng rồi. Ông để tâm như vậy với nỗi lo âu song không hề miệt thị. Thậm chí khi truyền hình hãy còn đang ở thời kỳ trứng nước thì ông đã hiểu rằng truyền thông đại chúng hùng mạnh cả về nội dung lẫn hình thức, nhưng ông cũng không ngừng chống lại thói quảng cáo thổi phồng rất đặc trưng trong lịch sử nước Mỹ mỗi khi đón nhận một trào lưu kỳ quan công nghệ.[10] Ông cho rằng truyền hình không có khả năng hô biến ra được tính cách dân tộc từ chỗ hư vô. Như ông diễn đạt: “Người Mỹ đã sẵn sàng cho truyền thông đại chúng còn trước cả khi truyền thông đại chúng sẵn sàng cho họ”. Thực vậy, đọc lại Đám đông cô đơn, ta sẽ thấy cuốn sách đồng cảm thế nào với các ưu điểm của truyền thông đại chúng – nhất là khi truyền hình thách thức tính địa phương, nuôi dưỡng sự giao thoa (hay lai ghép) các thị hiếu và đôi chút chủ nghĩa thế giới. Có hiểu biết tinh tế về quá trình sản xuất sản phẩm văn hóa, cuốn sách nhận thức được rằng lý do chủ yếu để truyền thông có những lợi ích này là bởi nó đóng đô ở những trung tâm đô thị lớn, “nơi áp lực thúc đẩy hướng tới tính khoan dung kiểu ngoại-tại-định-hướng là mạnh nhất”. (Điều này vẫn còn đúng ngay cả khi các tập đoàn truyền thông khổng lồ sau này lập thêm những kênh truyền hình phụ chuyên biệt dành cho các phân khúc theo nhân khẩu). Mặc dù Đám đông cô đơn thường được hiểu là tấn công vào kiểu ngoại tại định hướng, song Riesman vẫn làm mọi cách để tìm ra ưu điểm ở “tính ân cần, nhạy cảm và khoan dung” vốn tiêu biểu cho một xã hội không còn trông lên, không còn hướng về người lớn tuổi hơn và những uy quyền truyền thống để được chỉ bảo nữa.
Đám đông cô đơn vẫn dễ dàng trụ được khi một trong những giả thuyết nòng cốt của nó sớm sụp đổ. Đó là quan niệm cho rằng mỗi giai đoạn tính cách xã hội (kiểu truyền thống định hướng, nội tại định hướng, ngoại tại định hướng) tương ứng với một tỷ lệ tăng dân số. Trong bài phê bình Đám đông cô đơn trên Tạp chí Xã hội học Mỹ, Margaret Mead đã sớm nhận xét rằng bằng chứng Riesman đưa ra cho lý thuyết dân số là chưa đủ mạnh. Bà không phải là người duy nhất hoài nghi trên phương diện này. Chính Riesman năm 1949 cũng biết rằng mô hình dân số đã gây tranh cãi kịch liệt, khi cuốn sách hãy còn trong giai đoạn sửa bản in thử. Đến khi sách tái bản năm 1969 thì Riesman đã từ bỏ mô hình nhân khẩu học của mình. Sự xét lại này đã không – và vẫn không – ảnh hưởng nhiều đến cuốn sách. Cuốn sách đưa ra nhiều quan sát đến nỗi những độc giả dù bất đồng quan điểm sẽ chú mục vào những đoạn khác và thấy mình được chỉ dẫn. Bản thân Mead cũng đã lưu ý trong một đoạn rằng thói tuân thủ kiểu ngoại tại định hướng đã dẫn dắt người Mỹ đi đến chỗ phóng chiếu các trung tâm quyền lực nằm ngoài cái tôi – một lý do vì sao sự hoang tưởng trong đời sống Mỹ lại nổi bật như vậy, và có lẽ cũng là lý do vì sao người Mỹ lo sợ thái quá rằng người Nga sẽ tiếp quản họ. Bản thân tôi cũng đã rất ngạc nhiên về tính chất tiên tri trong thảo luận của Riesman về “người dự đoán nội tình” như một kiểu người trong xã hội mà mục tiêu là “không bao giờ để cho bất kỳ ai, sự nghiệp hay sự kiện nào lừa phỉnh”. Hình ảnh Sam Donaldson, Chris Matthews[11] và nhóm cộng tác đã được mường tượng ra rất lâu trước khi nụ cười tự mãn trở thành một phong thái ăn tiền của các học giả Washington. Nói tóm lại, như Margaret Mead diễn đạt, “hầu như đoạn nào trong cuốn sách cũng khuyến khích ta có những suy đoán lý thuyết và… gợi ý với độc giả những chương trình nghiên cứu bổ túc suốt đời”.
Tất nhiên, việc đọc cuốn sách bây giờ sẽ khác với đọc nó nửa thế kỷ trước – dù cuốn sách vẫn không kém phần sắc sảo. Sự rõ ràng ở bước chuyển tiếp từ kiểu nội tại định hướng sang ngoại tại định hướng là hiển nhiên hơn đối với độc giả những năm 1950, khi mà họ đột ngột bị cuốn vào trong cuộc sống sung túc. Ngày nay, cuốn sách có thể không còn tạo ra được tiếng vang như vậy nữa. Vào giữa thập kỷ 80, khi giảng dạy Đám đông cô đơn cho sinh viên năm thứ nhất và năm thứ hai ở trường Berkeley, tôi phát hiện ra là họ lúng túng không nắm bắt được sự khác biệt mấu chốt giữa kiểu nội tại định hướng và kiểu ngoại tại định hướng. Họ chỉ hiểu lờ mờ bằng trực giác. Điều này, như Riesman gợi ý, không phải vì “việc thay đổi từ kiểu nội tại định hướng sang kiểu ngoại tại định hướng [dường như] không quan trọng khi so sánh với” sự chuyển dịch lớn lao từ đời sống do truyền thống định hướng sang đời sống vừa do nội tại định hướng vừa do ngoại tại định hướng – bởi lẽ, nói cách khác, bước chuyển dịch từ xã hội truyền thống sang xã hội hoàn toàn hiện đại chính là sự chuyển tiếp quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại. Không, điểm khác biệt giữa “nội tại” và “ngoại tại” là khó hiểu đối với lớp sinh viên sinh sau năm 1960, những người sinh ra trong một thế giới nhạc rock và truyền hình, bởi lẽ những sinh viên này đã sống cả đời theo kiểu ngoại tại định hướng, với những chiếc rađa. Đến những năm 1980, định tính “đặc biệt nhạy cảm trước những hành động và mong muốn của người khác” mà Riesman cho là điển hình của kiểu ngoại tại định hướng đã từ lâu được định chế hóa thành những quy phạm trong các chương trình mạn đàm (talk-show) và chương trình “rèn luyện tính nhạy cảm”. Ý niệm cuộc sống với một con quay tâm lý hồi chuyển đã trở nên hầu như không thể hình dung được.
Tuy nhiên, độc giả phóng khoáng trở lại với Đám đông cô đơn sẽ cảm thấy nhiều dư chấn của nhận thức. Bước sang thế kỷ 21, người quan sát tỉnh táo sẽ được thấy hằng ngày sự chuyển dịch mà Riesman từng nhận ra ở các tầng lớp thượng lưu có giáo dục sinh sống trong các trung tâm đô thị, nhưng nay đã lan rộng khắp đất nước. Trong những cuộc tuyển cử gần đây, người dân chờ thấy các ứng viên tranh cử tổng thống trả lời câu hỏi của những người dân bình thường (Bill Clinton dễ tranh thủ được cảm tình của họ, George H.W Bush thì không bằng) và chuyện phiếm với phóng viên qua ống kính máy quay trên những chuyến xe buýt đường dài (John McCain).[12] Hình ảnh vị tổng thống tỏa hào quang xa vời vợi như Phù thủy xứ Oz[13] trước kia nay đã thuộc về dĩ vãng, giờ đây là một Nhà Trắng như Nhà Trắng của Lincoln mở rộng cho những cuộc chuyện trò đầy dung dị của tổng thống với mọi người.
Chính văn hóa đại chúng cũng bộc lộ sự chuyển biến lớn lao. Hãy xem những khác biệt giữa các chương trình thi đố có thưởng những năm 1950, “Câu hỏi 64.000 đô la” và “Hai mươi mốt”, với loạt chương trình ăn khách của năm 2000 mang tên “Ai là triệu phú?” Trong trò chơi truyền hình “Hai mươi mốt” trước kia, người dự thi ở trong những “buồng cách ly” tách hẳn khỏi tác động bên ngoài, không có mách nước, không có câu hỏi được nhiều quyền chọn lựa; họ đúng nghĩa là “nội tại định hướng”. Trong cuộc thi “Ai là triệu phú?” năm 2000, họ đứng bên ngoài, được cho bốn đáp án để chọn, được gửi “yêu cầu trợ giúp” đến gia đình, bạn bè và khán giả. Ở các cuộc thi thời trước, câu hỏi liên quan đến những lĩnh vực chuyên môn cao như opera, đấm bốc và hoàng gia châu Âu. Paul Farhi, một phóng viên năng nổ của tờ Washington Post, đã nêu ra sự khác biệt như sau:
Trong chương trình “Câu hỏi 64.000 đô la” (1955-58)… thí sinh được xem sáu bức chân dung và được yêu cầu không những kể tên họa sĩ và chủ đề của bức tranh, mà còn cả tên của ông thầy mà họa sĩ đó theo học. Một thí sinh khác được yêu cầu nói tên vở opera của Verdi đã mở đầu sự nghiệp chỉ huy dàn nhạc của Arturo Toscanini, cũng như ngày và địa điểm của buổi biểu diễn. Năm 1957, một giáo sư đại học trẻ tên là Charles Van Doren trong trò chơi truyền hình “Hai mươi mốt” được yêu cầu kể tên các vua Đan Mạch, Na Uy, Thụy Điển và Jordan. Herbert M. Stempel, đối thủ của Van Doren, cuối cùng đã phơi bày kiểu chơi khăm trong chương trình “Hai mươi mốt”, anh ta bị loại khỏi cuộc chơi khi chỉ trả lời được hai phần trong câu hỏi gồm ba phần sau đây: Tên chủ bút tờ báo bang Kansas chống chủ nghĩa dân túy trong những năm 1920 là gì? (William Allen White). Tờ báo của ông ta có tên là gì? (The Emporia Gazette). Mục chuyên luận do ông ta viết có tiêu đề là gì? (What’s the Matter With Kansas?).[14]
Trong cuộc thi “Ai là triệu phú” thì ngược lại, thí sinh có thể thắng được số tiền lớn nhờ biết “bánh quy Oreo có hai màu gì” hoặc quyết định bỏ qua cơ hội giành 500.000 đô la bằng cách không liều trả lời câu hỏi “Có bao nhiêu đứa trẻ nhà von Trapp trong phim The Sound of Music (Giai điệu hạnh phúc)?”[15] Nói cách khác, nguồn kiến thức chủ yếu lấy từ văn hóa đại chúng, kiến thức chia sẻ với những người ngang hàng chứ không phải kiến thức lấy từ những phẩm chất riêng của sự thông tuệ cá nhân.
Cứ cho là truyền hình ngày nay phổ biến rộng rãi hơn cuối những năm 1950, nhưng trình độ học vấn của khán giả hiện nay có lẽ, tính trung bình, lại thấp hơn trước. Nhưng nhân tố này tự nó không giải thích được quy mô của sự thay đổi. Rất có thể không những nền tảng tri thức mà cả khát vọng văn hóa của hầu hết người Mỹ cũng đã đổi khác. Người Mỹ không còn cảm thấy thú vị khi bị truy hỏi, khiến ta nghĩ rằng (theo kiểu con quay hồi chuyển) có thể còn nhiều điều nữa cần phải học hỏi trong suốt đời họ. Ngày nay, nhân danh sự “tự trọng”, họ rất “nhạy cảm” với những yếu kém ở bản thân; họ cần phải chứng tỏ mình đã biết nhiều đến đâu. “Tôi là một ai đó” thế chỗ cho “Một ngày kia tôi sẽ là một ai đó”.
Người ta mong mỏi có được những nghiên cứu phù hợp, đầy tham vọng thích đáng về những trạng thái tâm lý của ngày nay – những cuốn sách có ảnh hưởng và dễ tiếp cận như Đám đông cô đơn và cuốn tiếp nối một phần của nó, Habits of the Heart (Những thói quen của trái tim) (1986), do Robert Bellah và các cộng sự viết. Nói cụ thể, người ta tự hỏi liệu sự phát triển tăng vọt hiện thời (và những lo âu đi kèm) đang đóng vai trò gì trong tâm thức người Mỹ, những người thụ hưởng rất nhiều cũng như những người ít hoặc không thụ hưởng được gì. Xã hội học phải là thứ thời sự mà luôn luôn là thời sự, nhưng ngày nay ít có nhà xã hội học nào mở rộng trí tưởng tượng ra xa hơn các môi trường chật hẹp để đến với những câu hỏi lớn lao nhất là cấu trúc xã hội, văn hóa và xung đột. Lớp nhà nghiên cứu cao tuổi hơn, vốn nhất quyết đòi phải có chuyên môn hóa, thì lại không khuyến khích mở rộng phạm vi. (Ở đây cũng cần phải nói rằng, giống như Daniel Bell, một nhà xã hội học xuất sắc khác của chúng ta, Riesman chưa từng được đào tạo để làm luận án tiến sĩ. Ông chỉ có bằng cử nhân luật).[16]
Tôi xin được khép lại bằng một lời nhận xét cá nhân: năm 1960, khi là sinh viên năm thứ hai, tôi gặp David Riesman còn ông là cố vấn khoa cho nhóm vì hòa bình Tocsin của trường Harvard. Là một nhà phê phán chủ nghĩa dân tộc đã nhiều năm, Riesman tham gia viết rất nhiều bài và lên tiếng phản đối việc dựa vào vũ khí hạt nhân, và tôi ngạc nhiên biết rằng ông, một trong những giáo sư tiếng tăm nhất ở Mỹ, đã cho mượn ô tô để chở các nhóm hoạt động vì hòa bình đến bang Vermont tham gia vận động bầu cử cho một hạ nghị sĩ theo đường lối hòa bình. Thực hành thái độ mà ông đã hô hào, ôm ấp cả những hy vọng không tưởng lẫn những quan niệm thực tiễn, ông luôn luôn dành thời gian để đàm luận về chính trị và xã hội Mỹ. Ông giúp chúng tôi quyên tiền, thay mặt chúng tôi liên hệ với những người có thế lực, đưa chúng tôi đến các hội nghị, viết thư tiếp tục trao đổi sau các buổi nói chuyện. Ông viết thư quanh năm suốt tháng, đôi khi hơn một bức một ngày cho những người trao đổi thư từ thường xuyên (ông hẳn là người viết thư nhiều nhất sau Thomas Jefferson),[17] và dù hết sức đáng hãnh diện cho một sinh viên khi được quan tâm như vậy, nhưng Riesman cũng không hề nương tay trong vai trò cố vấn – nghĩa là ông không ngại phải bất đồng, đôi khi kịch liệt, về một vài quyết định của chúng tôi. Trong những năm ấy, ông còn phụ trách biên tập cho một tạp chí bình luận chính trị, tờ Bản tin Ban Liên lạc (về sau đổi thành Hội đồng liên lạc). Thực ra thì suốt mấy mươi năm qua ông đã là ban liên lạc gồm chỉ một thành viên. Ông quan tâm đến tất cả mọi thứ. Ông góp nhặt từng nhận xét nhỏ rồi đáp lại bằng hàng đoạn dài ngẫm suy kỹ lưỡng và nhận xét thấu đáo. Thế giới bao la này có hàng trăm người trao đổi thư từ với ông, cả nam lẫn nữ thuộc các thế hệ, những người trong nhiều thập kỷ qua đã dày kinh nghiệm viết thư cho ông, hay họ chỉ gửi đến ông một bài báo để rồi được đáp lại bằng một lá thư dài hơn nhiều, có khi tới hai ba trang, thường là trong vòng một tuần, hoặc một lời tạ lỗi vì đã phúc đáp chậm tới hai tuần.
Max Weber,[18] nhà xã hội học vĩ đại nhất thế kỷ, đã phàn nàn rất chính xác “những chuyên gia không có tâm hồn”. Riesman, nay trên 90,[19] đã dâng hiến cả trí tuệ lẫn tâm hồn mà không được đào tạo chuyên môn. Ông xứng đáng được đọc đi đọc lại và tấm gương của ông đáng được trân trọng.
Một bản lời tựa này lấy tên “Đám đông của chúng ta trở nên cô đơn ra sao”,
đã đăng trên The New York Times Book Review, 9/1/2000.
—-
CHƯƠNG I – Một số kiểu tính cách và xã hội
… độc giả có hiểu biết cũng không thể biết rằng, nhân tính, dù ở đây tập hợp lại dưới một cái tên chung, lại đa dạng phong phú đến mức ngay cả khi một đầu bếp đã dùng sạch tất cả các loại thực phẩm động vật và thực vật khác nhau trên thế giới rồi thì một tác giả vẫn chưa thể bàn hết mọi khía cạnh của một đề tài rộng lớn như vậy. —– Fielding, Tom Jones
Tôi nói đến người Mỹ ở số đơn, như thể không phải họ có hàng triệu người, sinh sống ở miền Bắc lẫn miền Nam, ở miền Đông lẫn miền Tây, thuộc cả hai giới, thuộc mọi lứa tuổi, với đủ chủng tộc, nghề nghiệp và tôn giáo khác nhau. Dĩ nhiên, người Mỹ mà tôi đề cập đây là tưởng tượng; nhưng nói bằng giọng ngụ ngôn là điều không thể tránh khỏi ở một đề tài như vậy, và làm vậy một cách thẳng thắn âu cũng là điều không thể tránh khỏi. —–Santayana, Tính cách và dư luận ở Hoa Kỳ[83]
Đây là cuốn sách bàn về tính cách xã hội và về các khác biệt trong tính cách xã hội của con người thuộc những vùng miền, thời đại và nhóm khác nhau. Cuốn sách xem xét những cách thức mà các kiểu tính cách xã hội khác nhau, sau khi đã được hình thành từ chỗ ngoặt của xã hội, sẽ được triển khai ra sao trong công việc, sự giải trí, chính trị và hoạt động nuôi dạy con cái. Cụ thể hơn, cuốn sách bàn về cách thức mà theo đó một kiểu tính cách xã hội, vốn chiếm ưu thế ở Mỹ hồi thế kỷ 19, dần dà bị một kiểu tính cách xã hội khác hẳn thế chỗ. Tại sao điều này xảy ra; nó xảy ra như thế nào; các hệ quả của nó ở một số lĩnh vực chính yếu của đời sống là gì: đó là chủ đề của cuốn sách này.
Vậy chúng tôi ngụ ý gì khi nói đến “tính cách xã hội”? Chúng tôi không nói đến “cá tính” (“personality”), thuật ngữ mà trong tâm lý học xã hội hiện nay được dùng để chỉ toàn thể cái tôi, cùng các khí chất và những tài năng di truyền của nó, các yếu tố sinh học cũng như tâm lý của nó, các thuộc tính thoáng qua cũng như ít nhiều bền vững của nó. Chúng tôi thậm chí cũng không nói đến “tính cách” (“character”) theo đúng nghĩa nội tại, nghĩa mà như cách hiểu hiện nay thường gặp, muốn nói đến chỉ một phần của cá tính – phần được hình thành không do di truyền mà do kinh nghiệm (vạch ra lằn ranh giữa hai thứ này là chuyện không đơn giản chút nào): Tính cách, trong nghĩa này, là một cấu trúc được điều kiện hóa ít nhiều ổn định về mặt xã hội và lịch sử, gồm các động cơ cá nhân và sự thỏa mãn của một cá nhân – kiểu như “bộ hành trang” mà một con người sử dụng khi tiếp cận với thế giới và những người khác.
“Tính cách xã hội” là phần “tính cách” có chung ở các nhóm xã hội chính, phần mà, như hầu hết các nhà khoa học xã hội hiện đại định nghĩa, là sản phẩm từ kinh nghiệm của các nhóm này. Ý niệm tính cách xã hội cho phép chúng ta bàn đến tính cách của các giai cấp, các nhóm, vùng miền và các dân tộc, đó cũng là điều tôi làm trong suốt cuốn sách này.
Tôi không định nấn ná thêm về nhiều điều còn chưa rõ trong khái niệm tính cách xã hội – liệu có thể quy kết nó một cách chính đáng cho kinh nghiệm chứ không phải cho di truyền hay không; liệu có hay không bằng chứng thực nghiệm cho thấy nó thực sự tồn tại; liệu ở đây nó có đáng được xem là quan trọng hơn các yếu tố tính cách và cá tính gắn liền tất cả mọi người khắp nơi trên thế giới lại với nhau, hay các yếu tố tính cách và cá tính [có tác dụng] phân cách mỗi cá nhân với hết thảy mọi người khác, thậm chí người thân nhất, hay không. Giả định rằng tính cách xã hội có tồn tại vẫn luôn là một tiền đề ít nhiều không nhìn thấy được trong lối nói thông thường và ngày nay đang trở thành một tiền đề ít nhiều nhìn thấy được trong các ngành khoa học xã hội. Do vậy, dù khoác tên này hay tên khác, nó cũng sẽ không xa lạ với bạn đọc nào từng biết đến các trước tác của Erich Fromm, Abram Kardiner, Ruth Benedict, Margaret Mead, Geoffrey Gorer, Karen Horney và của nhiều tác giả khác, họ đã viết về tính cách xã hội nói chung, hay tính cách xã hội của các dân tộc khác nhau và vào những thời kỳ khác nhau.
Hầu hết các tác giả này – cũng như tôi – đều cho rằng những năm tháng ấu thơ có tầm quan trọng lớn lao trong quá trình hình thành tính cách. Phần lớn họ đều đồng ý – như tôi – rằng không thể xem xét tách rời những năm đầu đời với cấu trúc xã hội, vốn là cái ảnh hưởng đến các bậc cha mẹ nuôi dạy những đứa trẻ, cũng như trực tiếp ảnh hưởng đến đứa trẻ. Bản thân những người cộng tác và tôi cũng dựa trên nền tảng nhất trí chung này, và không định bàn xem các tác giả này khác nhau thế nào và chúng tôi khác họ ở điểm nào.
I. Tính cách và xã hội
Tính cách xã hội và xã hội liên quan với nhau ra sao? Làm sao mà xã hội nào dường như cũng đều có được, không nhiều thì ít, tính cách xã hội mà nó “cần”? Erik H. Erikson viết, trong một nghiên cứu về tính cách xã hội của người da đỏ Yurok, rằng “… các hệ thống nuôi dạy con cái… cho thấy những gắng gỏi vô thức nhằm tạo ra từ nguyên liệu con người một tập hợp thái độ vốn đang (hay đã từng) là cái tối ưu trong những điều kiện tự nhiên đặc thù và các nhu cầu thiết yếu về kinh tế và lịch sử của bộ lạc”.[84]
Từ “các nhu cầu thiết yếu về kinh tế và lịch sử” đến “các hệ thống nuôi dạy con cái” là một bước nhảy dài. Phần lớn công việc của sinh viên nghiên cứu tính cách xã hội đã dành để lấp khoảng cách đó và cho thấy sự thỏa mãn “các nhu cầu” rộng lớn nhất của xã hội được chuẩn bị ra sao, theo một cách có phần bí ẩn nào đó, bởi các tập quán mật thiết nhất của xã hội. Erich Fromm đã súc tích gợi mở đường dây theo đó có thể lần ra mối liên hệ giữa xã hội và sự rèn luyện tính cách này: “Xã hội nào muốn vận hành tốt thì các thành viên phải học được kiểu tính cách khiến họ muốn hành xử theo cách họ phải hành xử với tư cách là thành viên của xã hội hay của một giai cấp riêng biệt trong xã hội đó. Họ phải mong muốn cái mà xét về khách quan là họ cần phải làm. Ngoại lực được thay thế bằng thôi thúc nội tại, và bằng loại năng lực tiềm tàng đặc biệt của con người đã truyền vào các nét tính cách”.[85]
Do vậy, mối liên hệ giữa tính cách và xã hội – chắc chắn không phải là thứ duy nhất, nhưng là một trong những thứ có ý nghĩa nhất, và là cái mà tôi chọn để nhấn mạnh trong thảo luận này – nằm trong cách thức mà xã hội bảo đảm một mức độ tuân thủ nào đó từ những cá nhân hình thành nên xã hội. Trong mỗi xã hội, một phương thức bảo đảm tính tuân thủ như vậy được cài sẵn vào trong đứa trẻ, rồi được khuyến khích hoặc bị ngăn trở trong kinh nghiệm trưởng thành về sau. (Xem ra không có xã hội nào đủ sức thấy trước để bảo đảm rằng phương thức tuân thủ mà nó đã cài sâu vào [tâm trí cá nhân] sẽ làm hài lòng những cá nhân phải chịu phương thức ấy ở mọi giai đoạn của cuộc đời). Tôi sẽ dùng thuật ngữ “phương thức tuân thủ” và thuật ngữ “tính cách xã hội” thay thế cho nhau – mặc dù, đương nhiên, tính tuân thủ không phải là toàn bộ tính cách xã hội: “phương thức sáng tạo” cũng là một phần của tính cách xã hội. Tuy nhiên, tuy xã hội và cá nhân có thể sống tốt – dù một cách khá buồn tẻ – nếu không có tính sáng tạo, song không đời nào họ có thể sống mà thiếu một phương thức tuân thủ nào đó, dù cho ấy là một phương thức tuân thủ nổi loạn.
Trong cuốn sách này tôi quan tâm đến hai cuộc cách mạng và mối tương quan của chúng với “phương thức tuân thủ” hay “tính cách xã hội” của người phương Tây từ thời Trung đại. Cuộc cách mạng đầu trong hai cuộc cách mạng từ 400 năm qua đã cắt đứt chúng ta khá dứt khoát khỏi các lối sống truyền thống được định hướng theo gia đình và thị tộc mà nhân loại đã quen thuộc trong suốt hầu hết lịch sử; cuộc cách mạng này bao gồm thời Phục hưng, giai đoạn Cải cách tôn giáo và Phản Cải cách tôn giáo, Cách mạng công nghiệp, và những cuộc cách mạng chính trị ở các thế kỷ 17, 18 và 19. Cuộc cách mạng này, dĩ nhiên, vẫn đang diễn ra, nhưng ở các nước tiên tiến nhất trên thế giới, đặc biệt là ở Hoa Kỳ, nó đang nhường đường cho một kiểu cách mạng khác – một loạt phát triển xã hội gắn liền với bước chuyển dịch từ thời đại sản xuất sang thời đại tiêu thụ.
Cuộc cách mạng đầu chúng ta đã hiểu khá rõ; dưới nhiều tên gọi khác nhau, nó nằm trong sách vở và trong hệ thuật ngữ của chúng ta; cuốn sách này không có gì mới để góp phần mô tả nó, song có lẽ lại đóng góp chút gì đấy để đánh giá nó. Cuộc cách mạng thứ hai, chỉ mới mở màn, đã làm nhiều nhà quan sát ngày nay quan tâm, kể cả các nhà khoa học xã hội, triết gia và nhà báo. Sự mô tả và đánh giá về nó vẫn còn gây nhiều tranh cãi; thật ra, nhiều người vẫn còn bận tâm đến tập hợp các cuộc cách mạng đầu nên vẫn chưa nghĩ ra các phạm trù để bàn luận về tập hợp cách mạng thứ hai. Trong sách này tôi sẽ cố làm rõ sự tương phản giữa một mặt là các điều kiện và tính cách trong các giai tầng xã hội ngày nay đang chịu tác động nhiều nhất từ cuộc cách mạng thứ hai, và mặt khác là các điều kiện và tính cách ở các giai tầng tương tự trong cuộc cách mạng trước; theo cái nhìn này, những điều được đề cập vắn tắt về các xã hội truyền thống và phong kiến bị cuộc cách mạng thứ nhất lật đổ chỉ có tính chất làm nền cho các chuyển dịch về sau.
Một trong những phạm trù mà tôi dùng được rút ra từ nhân khẩu học, là khoa học bàn đến các vấn đề tỷ lệ sinh và tỷ lệ chết, với dân số tuyệt đối và dân số tương đối trong một xã hội, và sự phân bố dân cư ấy theo tuổi tác, giới tính và những tham số khác, vì tôi thử tìm cách kết nối một số phát triển xã hội và tính cách học, như nhân và quả, với một số thay đổi dân số trong xã hội phương Tây từ thời Trung đại.
Mặc dù không có số liệu đáng tin cậy cho các thế kỷ trước, nhưng xem ra có cơ sở chắc chắn để nói rằng trong giai đoạn này đường đồ thị tăng dân số ở các nước phương Tây đã cho thấy một kiểu chữ S đặc thù (khi các nước khác bị hút gần hơn vào mạng lưới văn minh Tây phương, dân cư của họ cũng thể hiện xu hướng phát triển theo kiểu đồ thị chữ S này). Nét ngang dưới của chữ S tượng trưng cho tình trạng khi mà tổng dân số không tăng hay tăng rất chậm, vì số người ra đời xấp xỉ bằng số người chết đi, và cả hai con số đều rất cao. Trong các xã hội thuộc kiểu này, một tỷ lệ lớn dân cư là thanh niên, tuổi thọ trung bình thấp, và tốc độ thay thế các thế hệ cực kỳ nhanh. Các xã hội như vậy được cho là đang trong giai đoạn “tiềm năng tăng cao dân số”; vì nếu có tác động gì xảy ra làm giảm tỷ lệ chết rất cao ấy (sản xuất ra nhiều lương thực hơn, các biện pháp vệ sinh mới, kiến thức mới về nguyên nhân bệnh tật…), thì nó sẽ gây ra “bùng nổ dân số”, và như thế dân số sẽ tăng rất nhanh. Trên thực tế đây là chuyện đã xảy ra ở phương Tây, bắt đầu từ thế kỷ 17. Sự tăng vọt dân số này biểu lộ rõ nhất ở châu Âu, và ở những nước người Âu chiếm cứ và định cư, vào thế kỷ 19. Nó được tượng trưng bằng nét dọc của chữ S. Các nhà nhân khẩu học gọi đây là giai đoạn “tăng dân số chuyển tiếp”, vì tỷ lệ sinh sẽ chẳng mấy chốc bắt đầu theo tỷ lệ chết mà đi xuống. Tỷ lệ tăng dân số bấy giờ sẽ chậm lại, và các nhà nhân khẩu học sẽ bắt đầu phát hiện thấy các dấu hiệu của giai đoạn thứ ba, giai đoạn “chớm giảm dân số” thể hiện trong tỷ lệ người trung niên và người già ngày càng tăng trong dân cư. Các xã hội trong giai đoạn này được tượng trưng bằng nét ngang trên cùng của chữ S, điều này một lần nữa chỉ ra, như trong giai đoạn đầu, rằng tăng dân số tổng cộng không cao – nhưng lần này vì số sinh và số chết thấp.
Đường cong chữ S không phải là một lý thuyết về hiện tượng tăng dân số mà đúng hơn là một mô tả thực nghiệm về cái đã xảy ra ở phương Tây và ở những vùng miền trên thế giới chịu ảnh hưởng của phương Tây. Khi chữ S đã đi hết lộ trình rồi thì sẽ đến gì nữa? Những bước tiến ở Hoa Kỳ và các nước phương Tây khác trong những năm gần đây dường như không đi theo một tóm lược đơn giản đẹp mắt như vậy. “Chớm giảm dân số” đã không trở thành “giảm dân số” thực sự, còn tỷ lệ sinh thì cho thấy một khuynh hướng tăng trở lại không chắc chắn, điều mà hầu hết các nhà nhân khẩu học cho là tạm thời.[86]
Sẽ rất đáng ngạc nhiên nếu như những thay đổi về các điều kiện cơ bản là sinh sản, sinh kế và cơ hội sinh tồn, nghĩa là, trong cung và cầu cho con người, lại không ảnh hưởng đến tính cách, khi mà tất cả những điều này bao hàm sự thay đổi về không gian của dân cư, quy mô thị trường, vai trò của trẻ em, cảm nhận của xã hội về sức sống hay tình trạng già yếu, và nhiều thứ vô hình khác. Thật ra, luận điểm của tôi là mỗi giai đoạn trong ba giai đoạn khác nhau này trên đường đồ thị dân số xem ra do một loại xã hội chiếm cứ, mỗi loại xã hội có một cách bắt buộc tuân thủ và nhào nặn tính cách xã hội khác nhau rõ rệt.
Xã hội với tiềm năng tăng cao dân số phát triển ở các thành viên tiêu biểu của mình một tính cách xã hội mà tính tuân thủ được bảo đảm bằng khuynh hướng tuân theo truyền thống: tôi sẽ gọi đây là những người kiểu truyền thống định hướng và xã hội mà họ sống là xã hội phụ thuộc vào kiểu truyền thống định hướng.
Xã hội ở giai đoạn tăng dân số chuyển tiếp phát triển ở các thành viên tiêu biểu của mình một tính cách xã hội mà tính tuân thủ được bảo đảm bằng khuynh hướng thu nhận từ thời thơ ấu một tập hợp các mục tiêu đã được nội tại hóa [internalized]. Tôi sẽ gọi đây là những người kiểu nội tại định hướng và xã hội họ sống là xã hội phụ thuộc vào kiểu nội tại định hướng.
Cuối cùng, xã hội ở giai đoạn chớm giảm dân số phát triển ở các thành viên tiêu biểu của mình một tính cách xã hội mà tính tuân thủ được bảo đảm bằng khuynh hướng trở nên nhạy cảm với các kỳ vọng và sự ưa thích của người khác. Tôi sẽ gọi đây là những người kiểu ngoại tại định hướng và xã hội họ sống là xã hội phụ thuộc vào kiểu ngoại tại định hướng.
Tuy nhiên, cho phép tôi chỉ ra, trước khi đi vào mô tả ba “kiểu lý tưởng” của tính cách và xã hội này, rằng ở đây tôi không quan tâm đến việc tiến hành một phân tích tường tận, điều vốn sẽ là cần thiết trước khi người ta có thể chứng minh rằng có tồn tại một mối liên hệ giữa giai đoạn dân số và kiểu tính cách. Đúng hơn, thuyết đường đồ thị dân số đem lại cho tôi một kiểu ký hiệu vắn tắt để qua đó nhắc đến vô vàn yếu tố thuộc định chế vốn cũng được trình bày – tuy thường sôi nổi hơn – bằng những từ như “chế độ công nghiệp”, “xã hội dân gian”, “chủ nghĩa tư bản độc quyền”, “đô thị hóa”, “hợp lý hóa”, vân vân. Do đó mà ở đây, khi tôi nói đến tăng dân số chuyển tiếp hay chớm giảm dân số cùng kết hợp với những dịch chuyển trong tính cách và tính tuân thủ, thì bạn đọc không nên xem các cụm từ này như những giải thích tài phép và toàn diện.
Tôi sẽ đề cập nhiều đến tính phức tạp của các yếu tố kỹ thuật và định chế liên quan đến sự phát triển dân số – như nhân và quả – cũng như đề cập đến chính các dữ kiện nhân khẩu học. Đối với mục đích của tôi, việc phân chia các xã hội theo giai đoạn phát triển kinh tế mà họ đã đạt đến sẽ gần như thỏa đáng. Do vậy, sự phân biệt của Colin Clark giữa các khu vực kinh tế “nguyên khai”, “cấp hai” và “cấp ba” (khái niệm đầu muốn nói đến nông nghiệp, săn bắn và đánh cá, khai thác mỏ; khái niệm thứ hai là sản xuất; khái niệm thứ ba là thương mại, truyền thông và dịch vụ) tương ứng sát sao với sự phân chia xã hội trên cơ sở các đặc điểm nhân khẩu học. Ở các xã hội đang trong giai đoạn “tiềm năng tăng cao dân số”, khu vực “nguyên khai” chiếm phần lớn (ví dụ như Ấn Độ); ở các xã hội đang trong giai đoạn tăng dân số “chuyển tiếp”, khu vực “cấp hai” là chủ đạo (ví dụ như Nga); ở các xã hội trong giai đoạn “chớm giảm”, khu vực “cấp ba” lại nổi trội (ví dụ như Hoa Kỳ). Và đương nhiên, không có dân tộc nào lại thuần một kiểu, dù là về các đặc điểm dân cư hay nền kinh tế – các nhóm khác nhau và các vùng khác nhau phản ánh các giai đoạn phát triển khác nhau, còn tính cách xã hội thì phản ánh các khác biệt này.
TIỀM NĂNG TĂNG CAO DÂN SỐ: KIỂU TRUYỀN THỐNG ĐỊNH HƯỚNG
Giai đoạn tiềm năng tăng cao dân số tiêu biểu cho hơn phân nửa dân số thế giới: Ấn Độ, Ai Cập và Trung Hoa (đã tăng vọt trong các thế hệ gần đây), hầu hết các dân tộc chưa có chữ viết ở Trung Phi, các vùng ở Trung và Nam Mỹ, thực ra là hầu hết các vùng trên thế giới tương đối chưa bị công nghiệp hóa chạm đến. Ở đây tỷ lệ chết cao đến mức nếu tỷ lệ sinh không cao bằng thì dân cư sẽ tuyệt diệt.
Những vùng có dân cư nằm trong giai đoạn này sẽ hoặc là thưa thớt, như các vùng có nhiều bộ lạc nguyên thủy sinh sống và các vùng ở Trung và Nam Mỹ; hoặc có thể đông đúc, như Ấn Độ, Trung Hoa và Ai Cập. Theo cách nào thì xã hội cũng sẽ đạt được một cuộc thương lượng Malthus[87] với nguồn cung lương thực có hạn bằng cách giết sạch, theo cách này hay cách khác, một số nhân khẩu thừa khi số người sinh ra vượt số người chết đi – cái bẫy khổng lồ mà tự nhiên đã đặt sẵn cho con người, theo Malthus quan niệm, và con người chỉ có thể yên ổn thoát được nó bằng cách chăm lo cày cấy, trì hoãn hôn nhân để thận trọng không sinh con đẻ cái. Nếu không ngăn sinh con bằng biện pháp trì hoãn hôn nhân hay các biện pháp ngừa thai khác thì sẽ phải hạn chế dân số bằng cách tước đi mạng sống con người. Thế nên các xã hội đã “phát minh ra” tục ăn thịt người, nghĩ ra chuyện phá thai, tổ chức chiến tranh, tế người, và giữ tục giết trẻ sơ sinh (nhất là bé gái) như các biện pháp để tránh đói kém và bệnh dịch cứ đều đặn xảy ra.
Dù việc giải quyết các thôi thúc đối chọi nhau là thiếu ăn và tình dục luôn đi kèm với biến động và đau đớn, song các xã hội trong giai đoạn tiềm năng tăng cao dân số thường ổn định ít ra là về khía cạnh các tập quán xã hội của họ, bao gồm cả những “tội ác” để giảm dân số, đã được định chế hóa và trở thành khuôn mẫu. Hết thế hệ này sang thế hệ khác, con người sinh ra, bị tiêu diệt, chết đi nhường chỗ cho người khác. Tỷ lệ tăng tự nhiên thuần dao động trong một biên độ rộng, tuy không thể hiện xu hướng dài hạn nào, điều này cũng đúng với trường hợp các xã hội trong giai đoạn chớm giảm dân số. Nhưng không như các xã hội ở giai đoạn này, trong các xã hội với tiềm năng tăng cao dân số, tuổi thọ trung bình có đặc điểm là thấp: dân số nghiêng mạnh về phía lớp trẻ, thế hệ này thế chỗ thế hệ kia nhanh hơn và kém “hiệu quả” hơn so với các xã hội chớm giảm dân số.
Khi xem xét một xã hội như vậy, chúng ta tất không tránh khỏi sẽ phải liên hệ tính ổn định tương đối của tỷ lệ người-trên-đất-đai, dù cao hay thấp, với tính bền chặt của phong tục và cấu trúc xã hội. Tuy nhiên, chúng ta không nên đánh đồng tính ổn định của cấu trúc xã hội qua thời gian lịch sử với tính ổn định tinh thần trong quãng đời của một cá nhân: cái sau về mặt chủ quan có thể kinh qua nhiều bạo lực và hỗn loạn. Tuy nhiên, xét kỳ cùng, anh ta sẽ học được cách ứng phó với đời sống bằng thích nghi, chứ không phải bằng đổi mới. Không kể một số ngoại lệ thì tính tuân thủ phần lớn là định sẵn trong hoàn cảnh xã hội “hiển nhiên”. Dĩ nhiên trong đời người không bao giờ có gì thật sự là hiển nhiên; lúc có vẻ hiển nhiên thì đó là vì khả năng nhận biết đã bị sự thích nghi văn hóa thu hẹp. Khi mối tương quan bấp bênh với nguồn cung thực phẩm đã được gắn hẳn vào trong nền văn hóa đang tồn tại, nó giúp tạo ra một khuôn dạng tuân thủ có tính quy ước được phản ánh trong nhiều – nếu không muốn nói là trong mọi – xã hội ở giai đoạn tiềm năng tăng cao dân số. Đây là cái mà tôi gọi là kiểu truyền thống định hướng.
Định nghĩa về kiểu truyền thống định hướng. Vì kiểu trật tự xã hội chúng ta vừa bàn là tương đối ổn định, nên tính tuân thủ của cá nhân có chiều hướng phản ánh tư cách thành viên của người đó trong một độ tuổi, thị tộc hay đẳng cấp cụ thể; anh ta học cách hiểu và trân trọng các khuôn mẫu đã tồn tại hàng bao thế kỷ, có được điều chỉnh nhưng không đáng kể trong quá trình thế hệ này nối tiếp thế hệ khác. Các mối quan hệ quan trọng trong đời sống có thể được kiểm soát bằng nghi thức cẩn trọng và cứng nhắc, được lớp trẻ học hỏi trong những năm mới bước vào đời, chấm dứt bằng lễ thâu nạp làm thành viên của lớp người trưởng thành trọn vẹn. Hơn nữa, văn hóa, ngoài các nhiệm vụ kinh tế của nó, hay là một phần của các nhiệm vụ kinh tế, đem lại nghi lễ, thói tục và tôn giáo để làm người ta bận bịu và định hướng cho tất cả mọi người. Chẳng mấy ai dồn sức đặng tìm ra các giải pháp mới cho những vấn đề cũ, giả dụ như kỹ thuật nông nghiệp hay y học, những vấn đề mà con người đã được khai hóa.
Song, không nên nghĩ rằng, trong các xã hội này, nơi mà hoạt động của thành viên cá thể được định đoạt bởi sự phục tùng truyền thống, một sự phục tùng có gốc rễ trong tính cách học, thì có thể cá nhân sẽ không được đánh giá cao, và trong nhiều trường hợp, không được khuyến khích phát triển các khả năng, sáng kiến của mình, thậm chí những khát vọng của mình, trong những giới hạn thời gian rất eo hẹp. Thực ra, cá nhân trong một số xã hội nguyên thủy được đánh giá cao và tôn trọng hơn nhiều so với ở một số vùng trong xã hội hiện đại. Vì cá nhân trong một xã hội phụ thuộc vào kiểu truyền thống định hướng có mối quan hệ chức năng được xác định rõ với các thành viên khác trong nhóm. Nếu không bị trừ khử, anh ta sẽ có một “vị trí thành viên” trong đó – anh ta không phải là “đồ thừa”, kiểu như người thất nghiệp hiện đại là thứ “đồ thừa”, anh ta cũng không phải là đồ bị loại ra như người không có kỹ năng có thể bị loại ra trong xã hội hiện đại. Nhưng chính vì cái “vị trí thành viên” của anh ta mà các mục đích trong đời, vốn là của anh ta xét về mặt lựa chọn hữu thức, có vẻ như định hình số phận anh ta chỉ đến một chừng mực rất hạn hẹp, cũng như bất cứ khái niệm nào về tiến bộ đối với nhóm đó có chăng cũng trong chừng mực rất hạn hẹp mà thôi.
Trong các xã hội nơi kiểu truyền thống định hướng là cách thức chủ đạo để bảo đảm sự tuân thủ, tính ổn định tương đối được duy trì một phần nhờ quá trình ít khi xảy ra nhưng vô cùng quan trọng là làm cho những kẻ lầm lạc, nếu có, khớp vào các vai trò đã thành định chế. Trong các xã hội như vậy, một người mà nếu ở vào giai đoạn lịch sử về sau có thể trở thành nhà cách tân hay kẻ nổi loạn, thì giai đoạn này vị trí thành viên của anh ta về thực chất là ở bên rìa và đáng ngờ, nhưng anh ta sẽ được kéo vào những vai trò như pháp sư hay thầy phù thủy. Tức là, anh ta bị kéo vào những vai trò có đóng góp được xã hội công nhận, đồng thời những vai trò đó cũng đem lại cho cá nhân này một chỗ đứng ít nhiều được chấp nhận. Các dòng tu kín thời Trung đại có thể đã đóng một vai trò theo cách tương tự để thu hút nhiều “đột biến” tính cách.
Trong một số xã hội như vậy, những cá nhân nhất định được khuyến khích đạt tới một mức độ tính cá thể từ thời thơ ấu, nhất là nếu họ thuộc gia đình quyền thế. Nhưng vì phạm vi chọn lựa hết sức hạn hẹp, ngay cả đối với người có địa vị cao, nên nhu cầu rõ ràng của xã hội về một kiểu tính cách cá thể hóa cũng cực thấp. Có lẽ sẽ chính xác khi nói rằng cấu trúc tính cách trong các xã hội này “được thích nghi” ở mức độ rất lớn, theo nghĩa là ở hầu hết mọi người cấu trúc tính cách có vẻ như hòa hợp với các định chế xã hội. Ngay cả mấy kẻ hiếm hoi không khớp thì cũng “khớp” trong một chừng mực nào đó; và họa hoằn lắm người ta mới bị hất khỏi hệ thống xã hội.
Tất nhiên, điều này không có nghĩa là người ta có hạnh phúc; xã hội nào có những truyền thống mà người ta phải điều chỉnh theo có thể là một xã hội khốn khổ, đầy những lo âu, sự tàn bạo và bệnh tật. Điểm mấu chốt là sự thay đổi đó, mặc dù không bao giờ vắng bóng trong những vấn đề của con người, đã bị làm chậm lại như chuyển động của phân tử bị chậm lại ở nhiệt độ thấp; và tính cách xã hội hơn bao giờ hết đã trông suýt soát gần giống như ma trận của chính các hình thái xã hội.
Trong lịch sử phương Tây thì thời Trung đại có thể được xem là một giai đoạn mà đa số tính cách bị truyền thống định hướng. Nhưng thuật ngữ truyền thống định hướng muốn nói đến một yếu tố chung, không chỉ giữa dân châu Âu trước thời kỳ tư bản mà còn giữa các kiểu dân khác xa nhau như người Ấn và người da đỏ Hopi, người Zulu và người Hoa, người Ả Rập Bắc Phi và người Bali. Thật tiện lợi khi dựa vào nhiều tác giả đã nhận thấy một sự tương đồng giữa những dị biệt, một sự thống nhất mà họ diễn đạt bằng những thuật ngữ như “xã hội dân gian” [folk society] (trái với nền “văn minh”), “xã hội địa vị” [status society] (trái với “xã hội khế ước”), “Gemeinschaft” (trái với “Gesellschaft”),[88] vân vân. Dù các xã hội mà những thuật ngữ này hình dung ra khác nhau, nhưng các xã hội dân gian, địa vị và Gemeinschaft lại giống nhau ở chỗ tương đối chậm thay đổi, phụ thuộc vào gia đình và tổ chức họ hàng, và ở mạng lưới chằng chịt các giá trị – khi so sánh với các thời đại sau. Và như giờ đây những người quan tâm nghiên cứu đã nhận ra rõ ràng, tỷ lệ sinh cao trong các xã hội này ở giai đoạn tiềm năng tăng cao dân số không chỉ là do thiếu kiến thức hay kỹ thuật ngừa thai. Toàn bộ một lối sống – tức một quan điểm về cơ hội, về con cái, về địa vị của phụ nữ, về tính dục, về chính ý nghĩa tồn tại – là cơ sở phân biệt giữa các xã hội trong đó sức sinh sản của con người được phép diễn ra tự nhiên để rồi lãnh thiệt hại [về sau] và những xã hội ưa dùng các biện pháp khác để giảm trừ thiệt hại, bằng cách kiểm soát sinh đẻ có tính toán, và cũng dễ hiểu, như Freud và các nhà quan sát khác đã gợi ý, bằng sự tiết giảm chính năng lực tình dục.