Dấu Binh Lửa” là tác phẩm đầu tiên của tác giả, sau đó là loạt sách bao gồm: “Dọc Đường Số Một, Ải Trần-gian” (1970), “Mùa Hè Đỏ Lửa” (1972), “Dựa Lưng Nỗi Chết” (1973) và “Tù Binh và Hòa Bình” (1974). Tất cả đều xoay quanh ngữ cảnh Chiến tranh Việt Nam.
Sau năm 1975, tác giả bị giam giữ trong trại cải tạo suốt 14 năm (từ 1975-1989). Dù bị cách biệt trong hầm tối nhiều năm, ông vẫn sáng tác được nhiều bài thơ. Sau khi được phóng thích, ông vẫn bị hạn chế sống tại gia ở Lái Thiêu, Bình Dương.
Năm 1993, ông định cư tại Mỹ và phát hành các tác phẩm mới như: “Những Chuyện Cần Được Kể Lại, Đường Trường Xa-xăm” (1995), “Đêm Tận Thất-thanh và Mùa Đông Giữ Lửa” (1997). Năm 2002, tác phẩm “Những Chuyện Cần Được Kể Lại” được xuất bản bản tiếng Anh với tựa “The Stories Must Be Told”.
Truyện “Dấu Binh Lửa” với những hồi ký, chính trực và sống động về cuộc sống quân nhân, khiến người đọc hiểu sâu hơn về những khía cạnh đặc biệt của chiến tranh. Đây là những tác phẩm đáng đọc và đáng trải nghiệm của tác giả.Một trích đoạn vắng lời giới thiệu, diễn biến hấp dẫn và đầy cảm xúc. Tóm tắt một hồi ký cống hiến của một binh sĩ, những trải nghiệm đậm chất chiến trường. Lính Lầy đầu thập niên 60 rơi vào hoàn cảnh khó khăn, đói rét và cô đơn, nhưng họ vẫn tỏ ra lạc quan và kiên cường. Tình yêu quê hương và ước mơ bất tận hiện hữu trong từng dòng chữ, cùng với sự phẫn nộ và thắt lòng tại những bi kịch thời chiến. Công việc viết hồi ký đã không chỉ ghi lại mà còn làm dấy lên nhiều cảm xúc sâu sắc cho tác giả và độc giả. Đứng trước bước tiến vĩ đại của con người trên mặt trăng, tác giả không ngớ ngẩn trước thành tựu khoa học tuyệt vời, nhưng nhớ đến nỗi đau đớn và khó khăn của những nơi chưa được phát triển. Một tác phẩm đẫm chất người và hào hùng đất nước, đáng để đọc và suy ngẫm.Sự rộng lớn của cuốn sách này thực sự làm tôi cảm phục. Khi tôi đến Bệnh viện chiến tranh 3 Dã Chiến ở Hoa Kỳ một ngày, tôi đã gặp một người lính Mỹ đẩy xe chở một người khác bị thương ở chân. Anh chàng đẩy xe cũng là một thương binh, thân hình gầy ốm, tóc vàng hoe dài tựa xuống gáy, đeo kính cận dày cộm, nhưng nét mặt hồn nhiên và trẻ thơ. Nhìn vào khuôn mặt đó, tôi nhận ra tâm hồn của anh vẫn trong sạch và thuần khiết, không bị ảnh hưởng bởi cuộc chiến tranh. Đó thực sự là một điều đáng trân trọng.
Trong hơn hai năm qua, mỗi ngày tôi phải uống tám viên Nevrosvitamin 4 để làm dịu những cảm xúc bất ổn, những phản ứng không kiểm soát… Thiếu thuốc đó, tâm trạng của tôi như lửa đỏ bỏng, đầu óc như muốn nổ tung, tôi lo sợ và trở nên kỳ lạ ở nơi đông người. Nhưng sau hai tháng, tôi đã có thể từ bỏ việc phải dùng loại thuốc đó, thường xuyên nằm trên bãi cỏ trước phòng ngủ, cảm thấy an nhiên trong bình yên của khu vực quân sự hoang vắng, xa xa là những sườn núi Tăng Nhơn Phú bình lặng. Trong khung cảnh yên bình ấy, đọc lại những gì mình đã viết, tôi nhận ra những xung đột và khối lạc giữa các nhóm. Tôi muốn chia sẻ cuốn sách này cho những người trẻ, để xem phản ứng của họ trước những tác động của chiến tranh, mặc dù tôi cảm thấy lo sợ vì những gì mình đã viết không phản ánh đúng sự trong sáng.
Đương nhiên, một cuốn nhật ký không thể bị hạn chế bởi những ràng buộc của lý trí thông thường, đặc biệt khi nói về cuộc chiến đẫm máu. Nhưng khi nhìn lại tất cả những gì đã viết, thấy rằng chúng chỉ phản ánh sự đau đớn và oán hận, tôi tự hỏi liệu có quá đáng hay không? Khi nhìn thấy những đứa trẻ tham gia cuộc thi tài năng, tôi nhớ lại mười năm trước, khi tôi cũng có niềm tin và sự tươi sáng, vậy mà tại sao có những thay đổi tàn bạo và quá khích như vậy?
Tôi gặp lại Banh, người bạn cũ ở Đà Nẵng, để nhớ lại một kỳ Tết đau buồn, hai mươi chín Tết không có thức ăn – hai mươi chín cái Tết – thời kỳ khó khăn khó tưởng tượng. Banh đã đi xe hơn hai mươi cây số về làng ngoại thành Quảng Nam chỉ để xin mười quả trứng vịt, và hai chúng tôi đã chào đón xuân bằng những quả trứng trong suốt ba ngày Tết. Gặp Banh để nhớ rằng trong những thời kỳ khó khăn đó, tôi vẫn giữ lửa hy vọng và những tình cảm đẹp đẽ.
Những kể từ những sự kiện trên khiến tôi cảm thấy bối rối khi đọc lại những ghi chép của tám năm chiến tranh. Liệu suốt cuộc đời này, tôi chỉ biết đến nỗi đau và hận thù hay không? Từ đó mọc lên trong tôi những ý định từ bỏ, như những dấu chân của một người bi quan, và mong muốn thấy những dòng viết của mình mang niềm vui và sự trong sáng. Nhưng trong tám năm đó, niềm vui thật sự rất ít, ít đến mức đáng thương so với khổ đau mà tôi trải qua. Tám năm, một khoảng thời gian gần bằng với cuộc đời của nông phu Johann Moritz lang thang qua những trại tù trong thời kỳ Âu châu đẫm máu, nhưng trước và sau tám năm đó, người bạn Lỗ vẫn còn có những ngày vui tươi hy vọng. Tôi đã có niềm vui gì trước tám năm và ước mơ gì cho một Việt Nam hậu chiến? Nhưng thôi, nếu chỉ biết than thở, cũng không giúp gì hơn. Mong ước của tôi là xóa sạch những oán hận và thù địch. Nếu có xung đột với một số đối tượng, hãy hiểu rằng đó chỉ là suy nghĩ của một người muốn trung thực với bản thân trong hoàn cảnh khó khăn. Lỗi không nằm ở sự thành thật đó, đó là lỗi của một cuộc đời, lỗi của những con người đã bất lực trước số phận, để mất đi tình người. Thôi, đó là lỗi của mỗi chúng ta.
Ngày 10 tháng 9 năm 1969 tại Long Bình, Việt Nam.
Tiếng Việt thực sự là một ngôn ngữ kỳ diệu, một vài từ đơn giản cũng có thể tạo ra những hình ảnh sống động. “Bản lính” có vẻ buồn bã, nhạt nhẽo, vô nghĩa nhưng chúng chứa đựng sự chịu đựng và khó khăn tột cùng.Đẹp đẽ và cảm động. Tôi đã dành tám năm trong quân đội, và sau thời gian đáng nhớ đó, những khái niệm như đầu quân, tham gia ngũ, chiến binh, tuổi trẻ trong quân ngũ hay sự hoài niệm với tuổi lính, tuổi chiến trường đối với tôi như một hồi ức ngọt ngào. Khi bước vào quân đội lúc 18 tuổi, tôi tự hào và hứng khởi khi trở thành sinh viên sĩ quan với niềm tin rằng mình đã chọn đúng con đường, một nơi dưới bức nắng. Mỗi khám phá mới, từ những bước đi trong rừng thông đến lúc đứng trên đồi nhìn xuống hồ suối Vàng trong vắt, đều khiến tôi cảm thấy rộn ràng. Quân đội cũng đưa tôi đến những cuộc mạo hiểm giữa sương đêm, trên những đỉnh núi hoang vắng, như những câu chuyện mạo hiểm của Jack London. Tôi đắm chìm và say mê với những trải nghiệm đầy mới lạ ấy.
Nhưng cũng phải thừa nhận rằng những ngày đầu thời lính của tôi không chỉ toàn những cảm xúc tươi đẹp. Đời sống quân ngũ còn có sĩ quan, nghi lễ, và những phiền toái mà đời sống dân sự không thể hiểu. Cảm giác cô độc và khấp khiếp dần hiện hình trong tôi, khi nhìn từ khung cửa sổ và thấy nỗi cô đơn vô hình với ánh đèn xanh ma quái xa xôi. Đôi khi, tôi thấy rõ bản chất của mình, một chàng trai trẻ với nhiều nỗi lo lắng. Những buổi học, những cuộc cười đùa dường như không ảnh hưởng đến tâm hồn tôi. Không thể nào nắm bắt được kiến thức quân sự mặc dù trường đã cố gắng truyền dạy. Thời gian ở trường quân sự giống như một cuộc phiêu lưu. Điều đặc biệt thú vị chỉ đến khi tôi thức đêm dưới ánh đèn vọng từ gác kho đạn, khám phá thế giới sống xanh tươi dưới ánh sáng ban mai.
Sau hai năm, tôi trở thành một ông quan ra trận, sống trong những trận chiến lớn nhỏ từ Sài Gòn đến Bến Hải. Tôi đã có cơ hội trải nghiệm và hiểu rõ về nhiều địa danh xa xôi như Khe Sanh, Cồn Tiên, hay các ngôi làng nhỏ bên bờ sông. Mỗi chuyến đi của tôi trở thành một câu chuyện đáng nhớ trong lòng.Phù Cát thẳng đến biển là núi Lồi, đầm Trà Ổ, xuống phía Nam, đầm Nước Ngọt. Lên đến Pleiku, trực thăng vận xuống phía Nam biên giới Lào-Việt, đầu ngọn sông Ia-Drang… Mỗi chân đường tôi đều đi qua. Năm thứ nhất, thứ hai, thứ ba tôi sống thoải mái, vì đã đi đủ, nhìn đủ. Tôi cũng chấp nhận cho sự góp mặt ở chiến cuộc, góp mặt để chấm dứt chiến tranh. Thắng bại không kể, nhưng cốt yếu là không ở ngoài, không chạy trốn trong khi bạn bè những người cùng trang lứa đang tham dự, đang ngã chết. Dù chết bên này hay bên kia, chết trong thù hận hay chết tình cờ. Những người đi tìm cái chết để biện giải cho đời sống. Tôi tham dự vào cuộc hành trình khốn nạn này. Giải thích này làm tôi yên ổn. Cũng trong những tháng năm đằng đẵng gian khổ ấy, tôi khám phá ra được hạnh phúc của đời người. Hạnh phúc thật sự không có, chỉ có những hạnh phúc tương đối và giản dị. Hạnh phúc là bếp lửa thật nóng, bữa cơm có canh, một mái lều tranh không dột, căng được chiếc võng, uống ly cà phê, đọc tờ báo, sau năm ngày vượt ba mươi cây số đường rừng, rừng thật dầy không thấy trời, trong rét cóng của miền Trung vào những ngày cuối năm. Hạnh phúc nồng nhiệt khi trở về nhà trong đêm khuya gõ cửa, vợ ra đón với con nhỏ ba tháng, kể từ ngày sinh chưa được nhìn bố. Hạnh phúc là cái gì chắc chắn, nắm được ở trong tay khi cánh cửa chiếc phi cơ đóng lại và thân thể được nhấc lên trong độ cao, nhìn lại thành phố Huế đang âm ỉ cháy. Đấy – đời lính – đã dạy cho tôi biết được giá trị của những sung sướng tầm thường đó. Chỉ có thế mà tôi phải trả giá trong tám năm thật dài với tận cùng của khổ cực và căng thẳng. Nhưng đến hôm nay, bước vào năm thứ mười hai đời lính tôi lại rơi vào sự khủng hoảng của những năm đầu tiên. Nỗi khủng hỏang tàn tệ tội nghiệp gấp vạn lần trước. Thời gian ở quân trường, tôi còn có thế giới kỳ ảo thiên nhiên, những ngày mới ra đơn vị, tôi tham dự để biện minh thái độ dấn thân, lao vào lửa đạn không thắc mắc, không ngần ngại — Tôi dấn thân để tìm kiếm niềm an ủi do tham dự hết lòng, đồng thời còn có điều khôn ngoan đã tìm ra những hạnh phúc tương đối — Loại thực phẩm trần gian hợp với khẩu vị. Nhưng đến những tháng ngày hôm nay thì qủa thực tôi bất lực. Bất lực để giải thích cho chính bản thân, sự có mặt tham dự trong dòng đời hỗn loạn và mệt nhọc này. Những chốn trú ẩn xưa bị phá vỡ tan hoang, nếu không nói đến những phản ứng trái ngược đã xảy ra. Trên đường đi đến Lái Thiêu, vườn dừa xanh ngắt, hoa huệ trắng tỏa hương thơm ngát không gợi nên một thiên nhiên an lành mơ mộng nhưng trái lại như một đối tượng đang phải chịu sự tàn phá sắp tới của chiến tranh; một đối tượng đau đớn của thiên nhiên không được thụ hửơng sắp sửa bị tiêu hủy. Những ngày dài hành quân không gây chịu thích thú, không tạo mới lạ, chỉ còn lại chịu đựng… Chịu đựng im lìm trong một niềm bất mãn đến ngộp thở. Tám năm lính, tôi hai mươi sáu tuổi, số tuổi gần ba mươi, không bạn bè, xa bằng hữu, số tuổi cuả nỗi cô đơn kinh khiếp biến con người hững hờ, tàn ác như một lát dao. Tôi hai mươi sáu tuổi để thấy rõ cái mặc cảm phạm tội trước kia chỉ là một ảo tưởng xa xỉ của tuổi mới lớn, ảo tưởng về trách nhiệm con người đối với nhau. Tôi hai mươi sáu tuổi đủ để nhận rõ rằng: Hạnh phúc quả là một vật ít ỏi tương đối, nhưng nếu mua bằng giá của đời sống mình thì thật vô lý. Đành rằng sống chẳng là một cái gì rực rỡ nhưng nếu đánh giá đời sống bằng khổ cực và cái chết thì thật là một việc rồ dại và ngu xuẩn. Như vậy tôi hai mươi sáu tuổi có được gì? Tôi có được một cái nhìn thông suốt hết cả. Nói như thế có vẻ tự kiêu và lố bịch. Nhưng nếu trung thực hơn: Sau tám năm ở lính, tôi hết còn là vùng đất để nghiệm và chịu ảnh hưởng. Tám năm ở lính để biết mình là một cánh chim tự do nhưng đã bị chặt cánh. Chính thương tích này làm sáng tỏ khả năng tự do bi đát của đời người. Gần đây báo Sống tục bản dưới hình thức báo Công Chúng có đặt câu hỏi: Người thời đại nghĩ gì? Trong đó có nêu lên chi tiết ai là thần tượng cho tuổi trẻ hôm nay? Tôi hai mươi sáu không trẻ lắm nhưng chưa già, cố tìm cho mình một thầnăng mới, một định hướng mới trong cuộc sống.Cuối cùng, một cuốn sách với tinh thần truyền cảm và kiến thức sâu rộng về thần tượng đến với bạn. “Dấu Binh Lửa” của tác giả Phan Nhật Nam thậm chí còn đẫm chất tự truyện hấp dẫn. Khám phá cùng tôi nhé!