Cuốn sách “Đọc Vị Người Lạ” là một hành trình tri thức mê hoặc, đưa độc giả vào cuộc phiêu lưu trí tuệ sâu sắc, đậm chất Malcolm Gladwell. Trên hành trình này, chúng ta sẽ bước qua những vụ án gây sốc và những sự kiện gây tranh cãi trên khắp thế giới, từ vụ lừa đảo khủng khiếp của Bernie Madoff, phiên tòa ồn ào của Amanda Knox, đến những bi kịch như cái chết của Sylvia Plath hay Sandra Bland.
Malcolm Gladwell không chỉ đơn thuần làm sáng tỏ những câu chuyện đen tối, mà ông còn đặt ra câu hỏi lớn về cách chúng ta đánh giá và hiểu biết về những người chúng ta không quen biết. Ông chỉ ra những lỗ hổng trong cách chúng ta tiếp cận và giao tiếp với những người lạ, từ đó dẫn đến những hiểu lầm, mâu thuẫn, và tác động sâu sắc đến cuộc sống cá nhân và xã hội.
Với phong cách viết sắc sảo, lôi cuốn và sâu sắc, “Đọc Vị Người Lạ” không chỉ là một cuốn sách hấp dẫn về tâm lý học và xã hội học, mà còn là một hướng dẫn thực tiễn giúp chúng ta hiểu rõ hơn về bản thân và cách chúng ta tương tác với thế giới xung quanh trong thời đại đầy biến động.
Mời các bạn đón đọc cuốn sách Đọc Vị Người Lạ của tác giả Malcolm Gladwell
—-
Mở đầu – HÃY BƯỚC RA KHỎI XE
Tháng 7 năm 2015, một phụ nữ trẻ người Mỹ gốc Phi tên là Sandra Bland đang lái xe từ quê nhà ở Chicago đến một thị trấn nhỏ cách phía tây thành phố Houston, Texas một giờ lái xe. Cô đang phỏng vấn tìm việc tại Đại học Prairie View A&M, ngôi trường mà cô đã tốt nghiệp vài năm trước. Cô cao ráo và nổi bật, với một cá tính phù hợp với vẻ bề ngoài. Cô tham gia hội nữ sinh Sigma Gamma Rho khi còn ở trong trường, và chơi trong ban nhạc giễu hành. Cô tham gia tình nguyện giúp một nhóm người cao tuổi. Cô thường xuyên đăng những đoạn video ngắn, truyền cảm hứng trên YouTube dưới cái tên “Tiếng nói Sandy”, hay mở đầu bằng “Chào buổi sáng, những Ông Vua và Bà Chúa xinh đẹp của tôi”.
Hôm nay con ở đây chỉ để ngợi ca Chúa, cảm tạ nhân danh Ngài. Con biết ơn Ngài không chỉ bởi hôm nay là sinh nhật của con, mà con tạ ơn Ngài vì sự trưởng thành, vì những ân điển mà Ngài đã ban cho cuộc đời con trong một năm qua. Chỉ để nhìn lại hai mươi tám năm con được sống trên trái đất này, với tất cả những điều kỳ diệu mà Ngài đã chỉ cho con thấy. Ngay cả khi con từng mắc lỗi, con chắc chắn đã có lúc phạm sai lầm, Ngài vẫn luôn yêu thương con, và con chỉ muốn tất cả những Ông Vua, Bà Chúa ở ngoài kia biết rằng Ngài cũng yêu thương cả họ nữa.
Bland nhận được việc ở Prairie View. Cô quá sức vui sướng. Kế hoạch của cô sau này sẽ là vừa làm vừa học tiếp bằng thạc sĩ ngành khoa học chính trị. Vào buổi chiều ngày 10 tháng 7, cô rời khỏi trường đại học để đi mua thực phẩm, và khi rẽ phải vào đường cao tốc nằm cạnh vòng xuyến của khuôn viên trường Prairie View, cô bị cảnh sát ra hiệu dừng xe. Tên của anh ta là Brian Encinia: da trắng, tóc ngắn tối màu, ba mươi tuổi. Anh ta lịch sự – ít nhất là lúc đầu. Anh ta cho cô biết cô đã không bật đèn xi nhan khi chuyển làn. Anh ta hỏi cô vài câu. Cô trả lời. Rồi Bland châm một điếu thuốc, và Encinia yêu cầu cô vứt điếu thuốc đi.
Cuộc trao đổi tiếp sau của họ được ghi lại bởi camera nằm ở đầu xe của anh ta và đã có vài triệu lượt xem trên YouTube, ở dạng thức này hoặc dạng thức khác.
Bland: Tôi ngồi trong xe của tôi, sao tôi phải vứt điếu thuốc của mình đi?
Encinia: Được rồi, cô bước ra khỏi xe ngay.
Bland: Tôi không việc gì phải ra khỏi xe.
Encinia: Bước ra khỏi xe.
Bland: Tại sao tôi…
Encinia: Bước ra khỏi xe!
Bland: Không, anh không có quyền. Không, anh không có quyền.
Encinia: Bước ra khỏi xe.
Bland: Anh không hề có quyền. Anh không có quyền yêu cầu thế.
Encinia: Tôi có quyền, nào, bước ra khỏi xe không tôi sẽ kéo cô ra.
Bland: Tôi từ chối nói chuyện với anh ngoại trừ xưng danh tính của mình. [cắt ngang] Tôi buộc phải ra khỏi xe chỉ vì quên không bật đèn xi nhan?
Encinia: Bước ra nếu không tôi sẽ buộc cô phải ra.
Bland: Còn tôi sẽ gọi điện cho luật sư.
Bland và Encinia tiếp tục cuộc giằng co khó chịu một lúc lâu. Cảm xúc tăng vọt.
Encinia: Tôi sẽ kéo cô ra khỏi đây. [Vươn tay vào trong xe] Bland: Anh định kéo tôi ra khỏi xe của tôi á? OK, được rồi.
Encinia: [Gọi hỗ trợ] 2547.
Bland: Thử cùng làm xem sao.
Encinia: Phải, chúng ta sẽ làm thế. [Tóm lấy Bland] Bland: Đừng có động vào tôi!
Encinia: Bước ra khỏi xe!
Bland: Đừng động vào tôi. Đừng động vào tôi! Tôi không bị bắt – anh không có quyền kéo tôi ra khỏi xe.
Encinia: Cô bị bắt!
Bland: Tôi bị bắt á? Vì tội gì? Tội gì? Tội gì?
Encinia: [Với bộ đàm] 2547 Hạt FM 1098 [câm tiếng] Cử đội hỗ trợ. [Với Bland] Bước ra khỏi xe! Bước ra khỏi xe ngay!
Bland: Tại sao tôi lại bị bắt? Anh đang định ghi phiếu phạt vì tôi quên… Encinia: Tôi nói bước ra khỏi xe!
Bland: Tại sao tôi lại bị bắt? Anh vừa mở cửa xe–
Encinia: Tôi đang yêu cầu cô tuân thủ luật pháp. Tôi sẽ kéo cô ra khỏi đây.
Bland: Thế ra anh đang dọa sẽ kéo tôi ra khỏi chính xe của tôi?
Encinia: Bước ra khỏi xe!
Bland: Và rồi anh sẽ [câm tiếng] tôi?
Enicina: Tôi sẽ làm cho cô sáng mắt! Bước ra! Ngay bây giờ! [Rút súng ngắn ra và nhắm vào Bland]
Bland: Ấy khoan! Khoan! [Bland ra khỏi xe.]
Encinia: Bước ra. Ngay. Ra khỏi xe!
Bland: Chỉ vì quên xi nhan? Anh làm tất cả những việc này chỉ vì tôi quên xi nhan?
Bland bị bắt giữ và tạm giam. Ba ngày sau, cô tự tử chết trong buồng giam.
2. Trường hợp Sandra Bland xảy ra giữa một quãng ngừng lạ lùng trong đời sống cộng đồng Mỹ. Sự ngắt quãng bắt đầu vào cuối mùa hè năm 2014, khi một thanh niên da đen mười tám tuổi tên là Michael Brown bị một cảnh sát bắn tới chết ở Hạt Ferguson, Missouri. Cậu này bị cho là vừa “thó” một bao thuốc trong một cửa hàng tiện dụng. Vài năm tiếp theo lần lượt diễn ra các trường hợp nghiêm trọng khác liên quan đến bạo lực cảnh sát đối với người da đen. Các cuộc tuần hành và biểu tình diễn ra trên khắp đất nước. Phong trào nhân quyền có tên gọi Black Lives Matter (Sinh mạng Da đen Đáng giá) ra đời. Trong một khoảng thời gian, người Mỹ không ngớt nói về chuyện này. Có thể bạn vẫn nhớ một vài cái tên từng được nhắc đến trong các bản tin. Ở Baltimore, một thanh niên da đen tên là Freddie Gray đã bị bắt giữ vì mang bên mình một con dao bấm và rơi vào hôn mê trong thùng xe cảnh sát. Bên ngoài Minneapolis, một thanh niên da đen tên là Philando Castile bị cảnh sát ra hiệu dừng xe trên đường và rồi bị bắn bảy phát liên tiếp không thể lý giải nổi sau khi đưa cho viên cảnh sát giấy chứng nhận bảo hiểm. Ở thành phố New York, người đàn ông da đen có tên Eric Garner bị một toán cảnh sát tiếp cận vì nghi ngờ anh ta bán thuốc lá trái phép, sau đó bị bóp cổ đến chết trong cuộc giằng co. Ở Bắc Charleston, bang Nam Carolina, người đàn ông có tên Walter Scott bị cảnh sát dừng xe vì đèn chiếu hậu không hoạt động, đã chạy ra khỏi ô tô và bị viên cảnh sát da trắng bắn chết từ phía sau. Scott bị giết vào ngày 4 tháng 4 năm 2015. Sandra Bland đã dành riêng một tập để nói về anh ta trên kênh “Tiếng nói Sandy”.
Chào buổi sáng, các Ông Vua, Bà Chúa xinh đẹp… Tôi không phân biệt chủng tộc. Tôi lớn lên ở Villa Park, Illinois. Tôi là cô bé da đen duy nhất trong đội nhảy cổ động toàn da trắng… Hỡi những người da đen, các bạn sẽ không thể thành công trong thế giới này cho đến khi học được cách làm việc với người da trắng. Tôi muốn người da trắng thực sự hiểu được rằng trong cuộc sống ở ngoài kia, những người da đen cũng đang làm hết mức có thể… và chúng tôi không thể ngăn nổi cảm giác phẫn nộ khi nhìn ra những tình cảnh mà rõ ràng ở đó sinh mạng người da đen không có nghĩa lý gì. Còn đối với những người đặt câu hỏi tại sao anh ta lại bỏ chạy, ôi khốn nạn, cứ đọc những tin tức gần đây thì biết, người ta cứ việc đứng im, tuân lệnh cảnh sát và vẫn bị giết chết đó thôi.
Ba tháng sau, chính cô cũng chết.
Cuốn sách này là một nỗ lực để hiểu điều gì đã thực sự diễn ra bên lề đường cao tốc ngày hôm ấy ở vùng nông thôn Texas.
Tại sao tôi lại viết một cuốn sách về một vụ dừng giao thông chuyển hướng tồi tệ? Bởi vì cuộc tranh luận bùng nổ sau một dây các trường hợp như thế thực sự không khiến người ta tâm phục khẩu phục. Một bên thì đẩy cuộc thảo luận theo hướng phân biệt chủng tộc – kẻ cả nhìn xuống từng trường hợp từ độ cao ba nghìn mét. Một phía thì dò xét từng chi tiết trong từng trường hợp với một chiếc kính lúp. Viên cảnh sát ấy giống kiểu người nào? Chính xác thì anh ta đã làm gì? Một bên nhìn thấy cánh rừng nhưng không thấy cây. Phía còn lại thì nhìn thấy cây nhưng không thấy rừng.
Mỗi bên đều đúng, theo lý lẽ của riêng họ. Định kiến và yếu kém đã được mang ra để giải thích rõ ràng cho sự lệch lạc xã hội trong lòng Hoa Kỳ. Nhưng ta phải làm gì với chẩn đoán hay bắt bệnh của mỗi trường hợp, ngoài thề nguyện, với tất cả lòng thành thực, rằng sẽ cố gắng hơn trong lần tiếp theo? Có những tay cớm bẩn. Có những tay cớm thiên kiến. Những người bảo thủ thích cách hiểu trước, người ủng hộ tự do thích cách hiểu sau. Rốt cuộc thì cả hai bên triệt tiêu lẫn nhau. Những viên cảnh sát vẫn tiếp tục giết người ở đất nước này nhưng những cái chết ấy không còn thu hút sự chú ý của báo chí nữa. Tôi đồ rằng chính bạn lúc này cũng có thể phải ngừng lại một chút để nhớ xem Sandra Bland là ai. Chúng ta đã đặt những tranh cãi ấy sang một bên sau một quãng thời gian kha khá và rồi dịch chuyển qua những vấn đề khác.
Tôi không muốn dịch chuyển sang các vấn đề khác.
3. Vào thế kỷ XVI, có gần bảy mươi cuộc giao tranh giữa các quốc gia và lãnh địa ở châu Âu. Đan Mạch chiến đấu với Thụy Điển. Ba Lan giao chiến với các Hiệp sĩ Teuton. Đế quốc Ottoman chống lại Đế chế Venetian. Người Tây Ban Nha đánh nhau với người Pháp – vân vân và vân vân. Nếu có một mẫu số chung cho mối bất hòa bất tận ấy, thì đó là các trận chiến, hãi hùng thay, đều liên quan đến những người láng giềng với nhau. Bạn chiến đấu với người ở ngay bên kia chiến tuyến, vốn là những người vẫn ở ngay bên kia biên giới của bạn từ đời nào tới giờ. Hoặc bạn đánh nhau với người ở trong cùng đường biên: Chiến tranh Ottoman năm 1509 là cuộc tranh chấp giữa hai anh em ruột. Xuyên suốt phần lớn lịch sử loài người, các cuộc đối đầu – dẫu thù nghịch hay là loại khác – thường hiếm khi xảy ra giữa những người xa lạ. Những người bạn gặp và giao tranh thường cũng tin vào vị Chúa của bạn, xây dựng nhà cửa và sắp đặt thành trì giống như cách bạn làm, và họ cũng mang vào trận mạc cùng loại vũ khí và cùng tuân thủ những luật lệ chiến tranh như bạn.
Nhưng cuộc đao binh đẫm máu nhất thế kỷ XVI lại không hề mang bất cứ một nét mẫu hình nào như thế. Khi vị tướng xâm lược người Tây Ban Nha Hernán Cortés lần đầu tiên gặp thủ lĩnh của người Aztec Montezuma II, cả hai người họ đều không biết tí gì về đối phương, không một chút nào.
Tướng Cortés đặt chân lên bờ cõi Mexico vào tháng 2 năm 1519 và từ từ từng bước tiến vào nội địa, hướng về phía Aztec, thủ phủ của vùng Tenochtitlán. Khi Cortés và đạo quân tới nơi, họ thực sự sửng sốt. Tenochtitlán là một vùng rộng lớn kỳ vĩ và tráng lệ hơn bất cứ thành phố nào mà Cortés và đoàn tùy tùng từng biết đến khi còn ở Tây Ban Nha. Đó là một thành phố nằm trên một hòn đảo, liên kết với đại lục bằng những cây cầu và những con kênh bắc ngang. Nơi đây có những đại lộ rộng lớn, hệ thống cống dẫn nước liên thông, những khu chợ sầm uất, những đền đài được xây dựng trát vữa trắng bóc sáng lấp lánh, những khu vườn công cộng, thậm chí còn có cả sở thú. Còn một điều nữa, ấy là nơi đây sạch bong không một vũng bẩn – đối với người từng lớn lên trong bùn đất bẩn tưởi của các thành phố châu Âu thời trung cổ thì ắt hẳn đây gần như một điều kỳ diệu.
“Khi được tận mắt chứng kiến những phố thị và làng mạc được dựng trên mặt nước cùng những thị trấn trù phú trong đất liền, chúng tôi cảm thấy ngỡ ngàng tột độ và bảo nhau rằng những gì trông thấy như được phù phép vậy”, một trong những tướng lĩnh của Cortés là Bernal Díaz del Castillo hồi tưởng. “Và thậm chí vài chàng lính còn thốt lên không biết những gì hiện ra trước mắt có phải là một giấc mơ?… Tôi cũng không biết phải miêu tả như thế nào khi nhìn thấy những thứ mà từ thuở cha sinh mẹ đẻ chúng tôi chưa từng được thấy, thậm chí còn chẳng nằm mơ được”.
Những người Tây Ban Nha được một hội đồng tướng lĩnh người Aztec chào đón ở cổng thành Tenochtitlán, sau đó họ được dẫn đến gặp Montezuma. Vị thủ lĩnh với vẻ uy nghi siêu thực của một bậc quân vương, ngồi trên kiệu thêu đính vàng, bạc, gắn tràng hoa và đá quý. Một kẻ hầu cận trong triều đình đi trước cử lễ, quét sạch đường. Cortés bước xuống ngựa. Kiệu của Montezuma hạ thấp xuống. Cortés, theo thói quen của người Tây Ban Nha, bước tới ôm hôn thủ lĩnh của người Aztec – nhưng bị những người hầu cận của Montezuma chặn lại. Không ai được phép ôm hônMontezuma. Thay vào đó, hai bên chắp tay cúi đầu chào nhau.
“Phải Ngài đó không? Ngài là Montezuma?”
Montezuma đáp lời: “Phải, chính ta”.
Chưa từng có người châu Âu nào đặt chân tới Mexico. Chưa hề có người Aztec nào từng gặp một người Âu châu. Cortés không biết gì về Aztec ngoài cảm giác sững sờ trước sự tráng lệ và trù phú của thành phố mà người Aztec đã gây dựng. Montezuma cũng không biết gì về Cortés, ngoài việc thấy ông tướng này tiến về phía vương quốc của người Aztec với vẻ liều lĩnh đường hoàng, được võ trang bởi những món vũ khí kỳ lạ và mang theo một giống loài to lớn, bí hiểm – ngựa chiến – mà người Aztec chưa từng trông thấy bao giờ.
Ai mà không băn khoăn tự hỏi tại sao cuộc gặp gỡ giữa Cortés và Montezuma cho đến nay vẫn làm kinh ngạc biết bao nhà sử học trong suốt nhiều thế kỷ đã qua? Vào đúng khoảnh khắc ấy – hơn 500 năm về trước – khi những nhà thám hiểm bắt đầu vượt các đại dương và tiến hành những cuộc chinh phục táo tạo đến những miền đất chưa từng biết tới trước đó, đã có một kiểu đối đầu hoàn toàn mới mẻ nổi lên. Cortés và Montezuma muốn đối thoại với nhau, ngay cả khi họ không biết gì về người còn lại. Khi Cortés hỏi Montezuma “Phải Ngài đó không?” ông ta không trực tiếp nói ra những từ ấy. Cortés chỉ biết tiếng Tây Ban Nha. Ông mang theo hai thông dịch viên đi cùng. Một người là cô gái Anh-điêng bản địa có tên là Malinche, bị lính Tây Ban Nha bắt vài tháng trước đó. Cô biết tiếng Nahuatl và tiếng Maya của người Aztec, đó là các ngôn ngữ được sử dụng trên lãnh thổ Mexico, nơi Cortés bắt đầu hành trình chinh phạt. Cortés còn có một thầy tu người Tây Ban Nha tên là Gerónimo del Aguilar, ông này bị đắm tàu ở Yucatán và học được tiếng Maya trong thời gian lưu trú ở đó. Thế là Cortés nói với Aguilar bằng tiếng Tây Ban Nha. Anguilar dịch sang tiếng Maya cho Malinche. Và Malinche dịch từ tiếng Maya sang tiếng Nahuatl cho Montezuma – và khi Montezuma trả lời, “Phải, chính ta”, thì đường dây thông dịch dài dằng dặc lại chạy theo chiều ngược lại. Phương thức tương tác dễ dàng mặt-đốimặt mà mỗi bên vẫn từng quen thuộc từ thuở lọt lòng đột nhiên trở nên phức tạp một cách tuyệt vọng.[1] [1] . Ý tưởng Montezuma coi Cortés là một vị thần đã được sử gia Camilla Townsend, trong số những người khác, lý giải khá hợp lý. Townsend lập luận rằng có thể đó chỉ là một sự hiểu lầm, bởi vì thực tế trong tiếng Nahuatl, từ teotl được dùng để chỉ Cortés và đoàn tùy tùng, khi dịch sang tiếng Tây Ban Nha sẽ thành vị thần. Nhưng Townsend cho rằng người Aztec sử dụng từ đó chỉ bởi vì họ “cần phải gọi những người Tây Ban Nha này bằng một cái gì đó, và rõ ràng là họ hoàn toàn không biết cái gì đó nên là cái gì… Trong vũ trụ của người Nahualt hiện hữu cho đến thời điểm ấy, một người luôn được gắn với một làng mạc cụ thể hoặc một trấn, phủ, hoặc, cụ thể hơn nữa, là một người đảm nhiệm một vị trí xã hội (người cống nạp, hoàng thân, hay người hầu). Những người mới này không phù hợp với bất cứ vị trí nào hết.
Cortés được đưa đến một trong những cung điện của Montezuma – nơi mà Aguila về sau đã miêu tả là có “vô số phòng ở bên trong, có những phòng chờ và những đại sảnh lộng lẫy, có những giường nệm phủ dài, gối làm từ lông vũ và sợi bông, chăn phủ lông vũ và những chiếc áo choàng lông trắng tinh đáng thèm muốn”. Sau bữa tối, Montezuma nhập cuộc với Cortés cùng đoàn tùy tùng và trịnh trọng phát biểu. Ngay lập lức sự bối rối xuất hiện. Theo như những gì mà người thông dịch Tây Ban Nha truyền đạt lại lời của Montezuma, thì thủ lĩnh của người Aztec đang bày tỏ một sự hàng phục gây sửng sốt: ông ta tin rằng Cortés chính là một vị thần, xuất hiện theo đúng lời tiên tri cổ xưa rằng có một đấng thần linh bị lưu đày sẽ quay trở lại từ phương đông. Và kết quả là ông ta đã chấp nhận hàng phục trước Cortés. Bạn có thể hình dung ra phản ứng của Cortés: thành phố huyền diệu này giờ đây chính thực thuộc về ông ta.
Nhưng có đúng thực đó là điều mà Montezuma muốn nói? Nahuatl, ngôn ngữ của người Aztec có một kiểu nói ngược. Một nhân vật hoàng gia như Montezuma sẽ nói chuyện bằng mật mã, mà theo truyền thông văn hóa, những người quyền cao vọng trọng thể hiện vị thế của mình bằng cách nói khiêm tốn giả hiệu. Như nhà sử học Matthew Restall đã chỉ ra, trong tiếng Nahuatl, từ có nghĩaquý tộc không gì khác chính là từ có nghĩa tương ứng là trẻ ranh. Khi một bậc quân vương như Montezuma nhắc đến bản thân bằng một sự nhún nhường và yếu thế, thì nói cách khác, ông ta thực ra đang muốn thể hiện rằng ông ta đầy tự tin và uy quyền.
“Để dịch được chính xác một thứ ngôn ngữ như thế rõ ràng là một sự bất khả”, Restall viết:
Người diễn thuyết thường buộc phải nói ngược lại với những gì anh ta thực sự muốn nói. Ý nghĩa thực sự được gói ghém trong cách sử dụng ngôn ngữ đảo chiều. Bỏ qua những mập mờ sắc thái trong dịch thuật và tam sao thất bản khi sử dụng nhiều thông dịch viên… thì không chỉ những bài phát biểu như của Montezuma khó có khả năng được thông hiểu chính xác, mà ý nghĩa của nó còn có thể hoàn toàn bị đảo lộn. Trong trường hợp này, bài diễn thuyết của Montezuma không hề là lời đầu hàng; nó là lời phát biểu chấp thuận sự hàng phục của người Tây Ban Nha.
Có thể bạn vẫn nhớ bài học lịch sử trong trường trung học về cuộc đối đầu giữa Cortés và Montezuma kết thúc như nào. Montezuma bị Cortés bắt giữ và sau đó bị sát hại. Hai bên nổ ra chiến tranh. Có đến hai mươi triệu người Aztec bị xóa sổ, bị giết dưới tay của người Tây Ban Nha hoặc bị chết do dịch bệnh mà họ mang theo. Tenochtitlán bị phá hủy. Cuộc xâm chiếm của Cortés vào Mexico đánh dấu một kỷ nguyên chinh phục mở mang bờ cõi tàn bạo. Và nó đồng thời cũng giới thiệu một hình mẫu mới mẻ và khác biệt trong tương tác xã hội. Ngày nay con người liên tục ném mình vào quan hệ tương tác với những người mang những giả định, viễn kiến và nền tảng hoàn toàn khác biệt với chúng ta. Thế giới hiện đại không còn là chuyện cừu hận giữa hai anh em tranh giành quyền cai quản Đế chế Ottoman nữa. Mà là chuyện của những Cortés và Montezuma xoay xỏa để hiểu được nhau thông qua muôn tầng thông dịch. Cuốn sách này giúp tìm hiểu tại sao chúng ta lại kém cỏi đến thế trong nghệ thuật diễn dịch này.
Mỗi một chương sách tiếp theo sẽ dành trọn vẹn để thấu hiểu một khía cạnh khác nhau trong vấn đề kỳ lạ này. Bạn sẽ được nghe kể rất nhiều ví dụ – tất cả đều được trích xuất từ tin tức báo chí. Tại đại học Stanford ở bắc California, cậu sinh viên năm nhất có tên Brock Turner gặp gỡ cô gái trong một bữa tiệc, và đến đêm hôm ấy, cậu ta bị cảnh sát bắt giữ. Ở Đại học Bang Pennsylvania, cựu trợ lý huấn luyện viên của đội bóng bầu dục của trường, Jerry Sandusk, bị kết án tội ấu dâm, và hiệu trưởng của nhà trường cùng hai trợ lý đắc lực của ông bị kết án đồng lõa với tội ác trên. Bạn sẽ đọc câu chuyện về một điệp viên nằm vùng nhiều năm, đã leo lên những tầng cao nhất của Lầu Năm Góc mà không bị phát hiện, về người đã lật tẩy bộ mặt của nhà quản lý quỹ đầu tư Bernie Madoff, về án lệ của sinh viên Mỹ Amanda Knox trong chương trình trao đổi du học sinh, và về vụ tự tử của nhà thơ Sylvia Plath.
Trong tất cả các trường hợp, các bên liên quan đều trông cậy vào một bộ chiến lược diễn giải từ ngữ và ý định của đối phương. Và trong từng trường hợp, đều có một điều gì đó chệch hướng xảy ra. Trong cuốn sách này, tôi muốn hiểu những chiến lược ấy – phân tích chúng, chỉ trích chúng, xác định xem chúng đến từ đâu, và tìm ra cách để sửa chữa chúng. Đến cuối cuốn sách tôi sẽ quay trở lại với Sandra Bland, bởi vì có một điều gì đó trong cuộc chạm trán bên lề đường cao tốc ấy hẳn vẫn ám ảnh chúng ta. Hãy nghĩ xem nó khó khăn tới mức nào. Sandra Bland không phải là người mà Brian Encinia quen biết trong khu dân cư hoặc ở ngay con phố bên cạnh. Đáng lẽ mọi sự có thể dễ dàng thế này: Sandy! Chị khỏe không? Lần sau nhớ lái xe cẩn thận hơn chút nhé.Nhưng thay vào đó, bạn có một Bland đến từ Chicago và một Encinia đến từ Texas, một người là đàn ông, người còn lại là phụ nữ, một người da đen và một người da trắng, một nhân viên cảnh sát và một thường dân, một người được trang bị vũ khí, một người thì không. Họ là những người lạ với nhau. Nếu xã hội của chúng ta biết nghĩ thấu đáo hơn một chút – nếu chúng ta sẵn lòng tự vấn lương tâm hơn một chút khi tiếp cận và lý giải những người xa lạ với mình – thì có lẽ cô ấy đã không phải chịu kết cục bỏ mạng trong một phòng giam của bang Texas.
Nhưng để bắt đầu, tôi có hai câu hỏi – hai bài toán hóc búa về những người xa lạ – từ câu chuyện do một người đàn ông tên là Florentino Aspillage kể cách đây nhiều năm trong một phòng thẩm vấn ở nước Đức.
—
PHẦN MỘT – TÌNH BÁO & NGOẠI GIAO
Chương một – SỰ ĐÁP TRẢ CỦA FIDEL CASTRO
Nhiệm vụ cuối cùng của Florentino Aspillaga là ở Bratislava, nước Tiệp Khắc thời bấy giờ. Đó là vào năm 1987, hai năm trước khi Bức màn sắt sụp đổ. Aspillaga điều hành một công ty tư vấn có tên Cuba Tecnica, nơi đáng lẽ phải làm gì đó liên quan đến thương mại. Nhưng không. Đó chỉ là vỏ bọc. Aspillaga là sĩ quan cao cấp của Cơ quan Tình báo Cuba.
Aspillaga từng nhận danh hiệu nhân viên tình báo của năm trong ngành phục vụ tình báo Cuba năm 1985. Ông từng nhận được thư khen ngợi do chính tay Fidel Castro viết. Ông đã phụng sự đất nước bằng sự xuất sắc ở Moscow, Angola và Nicaragua. Ông là một ngôi sao sáng. Từ Bratislava, ông điều hành toàn bộ mạng lưới tình báo Cuba trong khu vực.
Nhưng vào một lúc, trên con đường đi lên vững vàng trong sự nghiệp tình báo Cuba của mình, ông dần thay đổi… Ông lên kế hoạch đào tẩu vào ngày 6 tháng 6 năm 1987. Đó là một trò đùa láu cá chỉ người trong cuộc mới hiểu. Ngày 6 tháng 6 là ngày kỷ niệm thành lập Sở Nội Vụ Cuba – cơ quan nắm toàn quyền điều hành hoạt động tình báo quốc gia. Nếu anh làm việc cho Cơ quan Tình báo Quốc gia Cuba thì hẳn là sẽ thường kỳ tham dự lễ chào mừng ngày 6 tháng 6 hằng năm. Sẽ có những bài diễn văn, các buổi tiệc mừng, các lễ kỷ niệm nhằm tôn vinh bộ máy tình báo Cuba. Aspillaga muốn sự phản bội của mình nhói buốt.
Ông hẹn gặp bạn gái Marta trong một công viên ở trung tâm Bratislava. Hôm ấy là chiều thứ bảy. Cô này cũng là người Cuba, một trong hàng ngàn công nhân nước ngoài làm việc trong các công xưởng của Tiệp Khắc. Giống như tất cả những người Cuba ở địa vị ấy, hộ chiếu của cô bị giữ trong văn phòng của chính phủ Cuba ở Praha. Chắc hẳn là Aspillaga đã lén đưa được cô qua biên giới trót lọt. Ông có một chiếc Mazda công vụ. Ông đã tháo bỏ lốp dự phòng trong cốp xe, đục một lỗ thông khí trên sàn và bảo cô trèo vào nằm trong đó.
Đông Đức, thời điểm ấy, vẫn đang ngăn cách với phần còn lại của châu lục bởi Bức tường. Di chuyển giữa hai bờ Đông và Tây bị kiểm soát chặt chẽ. Nhưng Bratislava chỉ cách thành phố Vienna có một quãng lái xe, và Aspillaga trước đó đã từng qua lại chặng đường này. Ông đã được quen mặt ở biên giới và lại có hộ chiếu ngoại giao trong tay. Lính gác chỉ việc vẫy tay cho xe qua.
Đến Vienna, ông và Marta vứt bỏ chiếc Mazda, gọi taxi và trình diện trước cửa Đại sứ quán Hoa Kỳ. Lúc đó là tối thứ bảy. Tất cả nhân viên cao cấp đều đã ở nhà. Nhưng Aspillaga chẳng cần cố gắng cũng có được sự chú ý của lính gác: “Tôi là một nhân viên thuộc Tình báo Cuba. Tôi là một sĩ quan chỉ huy tình báo”.
Trong nghề điệp viên, sự xuất hiện của Aspillaga trước của đại sứ quán ở Vienna được gọi là vãng lai. Một nhân viên thuộc một cơ quan tình báo của một quốc gia đột nhiên xuất hiện, bất ưng, trước cổng cơ quan tình báo của một quốc gia khác. Và Florentino “Tí hon” Aspillaga là một trong những nhân vật vãng lai vĩ đại nhất trong Chiến tranh Lạnh. Những gì ông ta biết về Cuba – và đồng minh thân cận, Liên Xô – thì nhạy cảm tới mức ông ta bị các sếp cũ ở cơ quan tình báo Cuba truy tìm và ám sát hụt đến hai lần sau cuộc đào tẩu. Cả hai lần ông đều chuội thoát. Kể từ đó, chỉ có duy nhất một lần Aspillaga lộ diện. Người gặp được là Brian Latell, từng phụ trách điều hành văn phòng CIA Mỹ Latinh trong rất nhiều năm.
Latell nhận được tin báo từ một điệp viên ngầm, người này hoạt động trong vai trò là trung gian của Aspillaga. Ông gặp nhân vật trung gian này trong một nhà hàng ở Coral Gables, ngay rìa Miami. Ở đó, ông được hướng dẫn đến một điểm hẹn khác gần nơi Aspillaga sinh sống dưới danh tính mới. Latell thuê một phòng khách sạn, ở một nơi vô danh và chờ Tí hon tới.
“Ông ta trẻ hơn tôi. Tôi bảy mươi lăm tuổi. Ông ta khi ấy chắc chỉ tầm ngoài sáu mươi”, Latell kể, hồi tưởng lại cuộc gặp. “Nhưng ông ta có vấn đề nghiêm trọng về sức khoẻ. Ý tôi là, một kẻ phản quốc, ẩn mình với danh tính mới, rất là nhọc”.
Nhưng ngay cả trong tình trạng xuống cấp, dẫu vậy, người ta vẫn cảm nhận được một Aspillaga trẻ tuổi hẳn sẽ như thế nào, Latell kể: quyến rũ, mảnh dẻ và có một chút gì đó kịch sĩ về người này – một kiểu khát thèm nếm trải những thử thách và những hành động long trời lở đất. Khi đến khách sạn, Aspillaga mang theo một chiếc hộp. Ông ta đặt nó xuống bàn và quay về phía Latell.
“Đây là bản thảo hồi ký mà tôi đã viết không lâu sau khi bỏ trốn”, ông ta nói. “Tôi muốn ông có nó”.
Bên trong chiếc hộp, trên những trang hồi ký của Aspillage, là một câu chuyện hoàn toàn vô lí.
2. Sau sự xuất hiện kịch tính trước đại sứ quán Hoa Kỳ ở Vienna, Aspillaga được hộ tống bay tới một trung tâm thẩm vấn nằm trong căn cứ Quân sự Hoa Kỳ ở Đức. Trong những năm ấy, tình báo Hoa Kỳ hoạt động trong Khu Lợi Ích Hoa Kỳ ở Havana, dưới quốc kỳ Thụy Sĩ. (Tổ chức Cuba cũng có một trụ sở tương tự như thế trong nước Mỹ). Trước khi buổi thẩm vấn bắt đầu, Aspillaga có một yêu cầu: ông ta muốn CIA mời đến vị cựu đội trưởng trạm Havana, một người đàn ông được tình báo Cuba biết đến với cái tên “el Alpinista” – Người Leo Núi.
Người Leo Núi đã tham gia công tác tình báo ở khắp các mặt trận trên toàn thế giới. Sau khi Bức tường Berlin sụp đổ, các tài liệu lưu trữ từ KGB và cảnh sát mật Đông Đức tiết lộ họ đã tổ chức hẳn một khóa giảng dạy về Người Leo Núi cho các đặc vụ của mình. Nghiệp vụ tình báo của ông ta hoàn hảo không tì vết. Một lần, các sĩ quan tình báo Liên Xô đã cố tuyển mộ ông: họ đã đặt hàng bao tải tiền, theo nghĩa đen hẳn hoi, trước mặt ông ta. Ông ta phẩy tay đuổi đi và chế nhạo họ. Người Leo Núi không thể bị mua chuộc. Ông ta nói tiếng Tây Ban Nha như người Cuba. Đó chính là hình mẫu lý tưởng của Aspillaga. Aspillaga mong muốn được gặp mặt đối mặt với ông.
“Khi ấy tôi đang làm nhiệm vụ ở một quốc gia khác thì nhận được tin nhắn giục giã quay trở lại Frankfurt”, Người Leo Núi nhớ lại. (Mặc dù đã giải nghệ khỏi CIA từ rất lâu, ông vẫn muốn được nhận diện bằng bí danh của mình.) “Frankfurt có một trung tâm xử lý đào ngũ. Họ cho tôi biết có một nhân vật vừa tới đại sứ quán ở Vienna. Ông ta trốn khỏi Tiệp Khắc với cô bạn gái giấu trong cốp xe, trình diện và đòi được nói chuyện với tôi. Tôi nghĩ điều đó thật điên rồ”.
El Alpinista đến thẳng trung tâm thẩm vấn. “Tôi thấy có bốn sĩ quan chỉ huy đã ngồi sẵn trong phòng khách”, ông kể. “Họ bảo tôi là Aspillaga đang ở trong phòng ngủ làm tình với cô bạn gái, ông ta liên tục làm việc này kể từ khi được đưa đến căn nhà trú ẩn. Sau đó tôi bước vào nói chuyện với ông ta. Ông ta cao lêu nghêu, ăn vận xuềnh xoàng, đúng kiểu thường thấy ở những người Đông Âu và Cuba hồi ấy. Hơi luộm thuộm. Nhưng ngay tức thì người ta có thể nhận ra đó là một gã rất thông minh”.
Khi bước vào, Người Leo Núi không cho Aspillaga biết mình là ai. Ông cố tỏ ra bí hiểm; Aspillaga là một ẩn số. Nhưng chỉ trong vòng vài phút Aspillaga đã nhận ra. Đó là một khoảnh khắc của kinh ngạc và vỡ òa. Hai người đàn ông ôm chầm lấy nhau, một phong cách Cuba.
“Chúng tôi trò chuyện chừng năm phút trước khi bắt đầu đi vào công việc. Bất cứ khi nào bạn thẩm vấn một trong những người này, bạn cần một ai đó chứng minh tính xác tín của họ”, Người Leo Núi nói. “Vì thế, về căn bản, tôi hỏi ông ta xem ông ta có thể nói những gì về tổ chức [tình báo Cuba]”.
Chỉ đến lúc ấy Aspillaga mới hé lộ quả bom tấn mà ông ta mang theo, thông tin đã mang ông ta từ phía sau Bức màn sắt đến trước cửa đại sứ quán ở Vienna. CIA có một mạng lưới điệp viên trong lòng Cuba, những người có nhiệm vụ chuyển báo cáo cho các sĩ quan phụ trách của họ nhằm định hình sự thấu hiểu của người Mỹ đối với kẻ thù của họ. Aspillaga đọc tên một trong số họ và nói, “Anh ta là điệp viên hai mang. Anh ta làm việc cho chúng tôi”. Cả phòng sững sờ. Họ không hề có chút manh mối nào. Aspillaga tiếp tục nói. Ông ta đọc tên một điệp viên khác. “Anh ta cũng là hai mang”. Một người nữa, và lại một người nữa. Ông ta biết đầy đủ tên họ, các chi tiết, nhiệm vụ và ám hiệu. Người đó các ông tuyển mộ trên một tàu thủy ở Antwerp. Gã béo tí hon với râu quai nón kia ư? Cũng là hai mang. Còn người kia, bị thọt chân, làm việc trong bộ quốc phòng ấy hả? Hắn là hai mang. Ông ta tiếp tục như thế cho đến khi liệt kê ra hàng tá cái tên – về cơ bản là toàn bộ điệp viên mật của Mỹ cắm rễ trong lòng Cuba. Tất cả bọn họ đều làm việc cho Havana, mớm cho CIA những thông tin đã được chế biến kỹ càng bởi các đầu bếp Cuba.
“Tôi ngồi đó và ghi chép”, Người Leo Núi nói. “Tôi cố không để lộ chút cảm xúc nào. Đó là những gì chúng tôi đã được đào tạo. Nhưng tim của tôi đập thình thịch”.
Aspillaga đang nói chuyện với Người Leo Núi về những đồng đội của ông, những điệp viên cộng tác với ông khi ông còn làm nhiệm vụ ở Cuba, trong vai trò là một sĩ quan tình báo trẻ tuổi và tham vọng. Khi lần đầu đặt chân tới Havana, Người Leo Núi đã quyết định chọn cách tiếp cận với các nguồn tin của mình một dồn dập, liên tục đào xới để kiếm thông tin từ họ. “Vấn đề là, nếu anh có một điệp viên làm việc trong văn phòng tổng thống của một quốc gia nào đó, nhưng anh không thể giao tiếp với anh ta, thì gã đặc vụ ấy là vô dụng”, Người Leo Núi nói. “Cảm giác của tôi là được rồi, cứ trò chuyện và thu được một chút giá trị, còn hơn là ngồi chờ đợi sáu tháng hay cả năm trời, lỡ mà anh ta lại bị điều chuyển sang bộ phận khác thì công toi”. Nhưng giờ đây tất cả những mánh lới ấy trở thành quả đắng. “Tôi phải thừa nhận là tôi không ưa nổi Cuba, đến độ tôi đã thấy thật thỏa mãn khi qua mặt được họ”, ông nói, giọng rầu rĩ. “Nhưng hóa ra kẻ dùng vải thưa che mắt thánh ở đây lại là họ, chứ nào phải là tôi. Thật là một cú trời giáng”.
Người Leo Núi lên một chiếc máy bay quân sự cùng với Aspillaga bay thẳng tới Căn cứ Quân sự Không quân Andrews bên ngoài Washington, DC. Ở đó, họ được dẫn tới gặp những nhân vật “tai to mặt lớn” của nhánh châu Mỹ Latinh. “Ở tiểu ban Cuba, phản ứng là tuyệt đối bàng hoàng và kinh hãi”, ông nhớ lại. “Họ không thể tin nổi là họ đã bị dắt mũi tệ hại đến thế, trong quá nhiều năm. Nó tạo ra một làn sóng kích động”.
Tình hình còn trở nên tồi tệ hơn nữa. Khi Fidel Castro biết tin Aspillaga đã cho CIA biết được nỗi hổ thẹn của họ, ông quyết định xát thêm muối vào vết thương hở. Đầu tiên ông cho triệu tập toàn bộ đội ngũ giả danh đặc vụ CIA và tổ chức cho họ diễu hành khắp nước Cuba để biểu dương thắng lợi. Sau đó ông cho phát trên truyền hình Cuba những thước phim tài liệu đầy sửng sốt gồm mười một phần có tựa đề La Guerra de la CIA contra Cuba – Cuộc chiến chống lại CIA của Cuba. Tình báo Cuba té ra là đã quay phim và ghi âm lại toàn bộ hoạt động của CIA, từng đường đi nước bước của họ trong lòng Cuba trong vòng ít nhất mười năm – như thể họ đang dựng một chương trình truyền hình thực tế vậy. Sống sót: Phiên bản Havana. Thật kinh ngạc là bộ phim có chất lượng rất cao. Có những cảnh quay cận và những góc quay đầy tính điện ảnh. Âm thanh thì trong như pha lê: hẳn là người Cuba đã phải biết trước đầy đủ các địa điểm gặp gỡ bí mật, và cử nhân viên kỹ thuật đến gắn thiết bị nghe lén khắp các phòng để thu âm.
Trên màn hình, các nhân viên CIA, đáng lẽ phải là những điệp viên nằm vùng bí mật, lần lượt được chỉ mặt đặt tên. Có cả đoạn phim quay toàn bộ những thiết bị tối tân của CIA: những chiếc giỏ giã ngoại hay va ly chứa thiết bị giấu kín. Còn có những giải thích chi tiết cho biết nhân viên CIA sẽ sử dụng chiếc ghế băng nào trong công viên để trao đổi thông tin với các nguồn tin và cách CIA sử dụng màu áo làm ám hiệu bí mật cho đầu mối của họ như thế nào. Một cảnh quay dài cho thấy một đặc vụ CIA nhét tiền mặt và chỉ dẫn vào ruột một “hòn đá” giả làm bằng nhựa cỡ bự; một cảnh khác bắt gặp cảnh một nhân viên CIA nhét tài liệu bí mật cho đặc vụ của mình bên trong một chiếc xe hư hỏng trong bãi rác thải xe cộ ở Pinar del Rio; và trong một cảnh khác nữa, một nhân viên CIA đang tìm kiếm một gói hàng giấu trong bãi cỏ rậm rì bên lề đường trong khi vợ anh ta bồn chồn hút thuốc lá chờ đợi trong xe. Người Leo Núi cũng xuất hiện thoáng qua trong bộ phim tài liệu. Người kế nhiệm của ông còn thảm hại hơn. “Khi người ta trình chiếu chương trình ti vi ấy”, Người Leo Núi kể, “có cảm giác như họ cử riêng một người vác máy quay trên vai đi theo anh ta khắp chốn cùng nơi vậy”.
Khi lãnh đạo đầu não văn phòng FBI ở Miami được báo cáo về bộ phim tài liệu, ông liền gọi điện thoại cho tiểu ban Cuba và yêu cầu gửi cho ông một bản sao. Ngay lập tức một tập băng ghi hình được nhanh chóng gửi đến, còn cẩn thận lồng phụ đề tiếng Anh đầy đủ. Tổ chức tình báo tinh nhuệ nhất thế giới đã bị quay như quay dế.
3. Và đây chính là điều khiến cho câu chuyện về Florentino Aspillaga trở nên vô nghĩa lí. Nếu Cuba qua mặt được một nhóm các ông già bà cả, theo cách mà các nghệ sĩ ảo thuật vẫn làm, thì là bình thường. Nhưng đằng này người Cuba đã phỉnh lừa được cả CIA, một tổ chức vốn coi trọng những vấn đề như là thấu hiểu những người lạ một cách nghiêm túc.
Còn có tài liệu đầy đủ về từng người trong số những điệp viên hai mang. Người Leo Núi nói ông đã kiểm tra họ kỹ càng. Không hề có bất cứ dấu hiệu cờ đỏ nào phất lên. Giống như tất cả những cơ quan tình báo khác, CIA cũng có một phân nhánh – tiểu ban phản gián – mà nhiệm vụ của họ là điều tra chính tổ chức của mình để tìm ra những dấu hiệu phản bội. Thế họ tìm được gì? Không gì cả.[2] Nhiều năm sau, khi nhìn lại quãng thời gian này, tất cả những gì Latell có thể làm là một cái nhún vai và nói rằng người Cuba thật sự tài ba. “Họ làm điều đó một cách điêu luyện”, ông nói.
[2] . CIA thường xuyên thực hiện một hoạt động đó là yêu cầu các đặc vụ làm bài kiểm tra trên máy nói dối – nhằm chống lại chính xác kiểu phản bội mà Aspillaga đã miêu tả. Bất cứ khi nào một trong số các điệp viên Cuba rời khỏi đảo, CIA sẽ bí mật gặp họ trong một phòng khách sạn và bắt họ ngồi chạy máy nói dối. Một số lần một số người Cuba sẽ vượt qua bài kiểm tra; lãnh đạo của phân nhánh kiểm tra nói dối sẽ trực tiếp trao cho họ giấy chứng nhận tình trạng trong sạch cho sáu đặc vụ Cuba khác, những người mà kết quả cuối cùng đều là những điệp viên hai mang. Có những lần thì họ trượt bài kiểm tra. Nhưng chuyện gì xảy ra khi họ trượt? Những người điều hành tiểu ban Cuba sẽ chối bỏ kết quả. Một trong số cựu nhân viên phòng kiểm tra nói dối, John Sullivan, nhớ lại một lần ông được triệu tập đến một cuộc họp sau khi nhóm của ông đánh trượt quá nhiều nhân sự thuộc tiểu ban Cuba. “Họ đánh úp chúng tôi”, Sullivan nói. “Chúng tôi bị mắng nhiếc không ra gì… Tất cả các các sĩ quan đều bảo, ‘Các anh đúng là chả biết mình đang làm cái gì’, vân vân và vân vân. ‘Đến Mẹ Theresa hẳn cũng sẽ bị các anh đánh trượt”. Ý tôi là, họ thực sự rất, rất, rất khinh bỉ chuyện này”.Nhưng liệu ai có thể trách được họ? Trong các sĩ quan phụ trách lựa chọn thay thế phương pháp lý giải những người lạ mặt (buộc họ vào chiếc máy dò nói dối) bằng một phương pháp khác: sự phán xét của chính họ. Và điều này hoàn toàn hợp lô-gic.
Máy nói dối, nói theo cách giảm nhẹ nhất, là một nghệ thuật thiếu chính xác. Các sĩ quan phụ trách đã có rất nhiều năm kinh nghiệm với một điệp viên cụ thể: đã gặp gỡ, trò chuyện với họ và phân tích chất lượng các bản bảo cáo họ gửi về. Những đánh giá của một tay chuyên nghiệp được đào tạo, đã lăn lộn trong nghề bao nhiêu năm, hẳn là phải chính xác hơn kết quả của một cuộc gặp vội vã trong một phòng khách sạn chứ, phải không? Ngoại trừ câu trả lời là không.
“Rất nhiều sĩ quan phụ trách của chúng tôi đã nghĩ rằng, “Tôi là một sĩ quan phụ trách giỏi, họ không thể qua mặt tôi được,’” Sullivan nói. “Ngay lúc này tôi đang nghĩ đến một nhân vật cụ thể – một người sĩ quan phụ trách rất, rất giỏi – mọi người cho rằng ông ấy là một trong những sĩ quan phụ trách tài giỏi nhất trong cả văn phòng”. Rõ ràng là anh này đang ám chỉ đến Người Leo Núi. “Họ để ông ta trao đổi với những điệp viên “trong sạch” kia. Thực tế là họ đã đẩy ông ta vào phục vụ bộ phim chết tiệt. Chuyện ấy thật điên rồ”.
Ý tôi là Fidel Castro đã lựa chọn những điệp viên hai mang mà ông có thể chi phối. Ông đã tuyển lựa bọn họ bằng sự tài tình thật sự… Một số người được đào tạo rất tốt. Một số khác lại tỏ ra ngây thơ, cái kiểu anh biết rồi đấy… Thực ra người đó rất xảo trá, một sĩ quan tình báo lão luyện… Nhưng sao nhỉ, người đó tỏ ra ngốc nghếch. Một người như thế làm sao là điệp viên hai mang cho được? Fidel điều khiển tất cả những màn kịch này. Ý tôi là, Fidel quả thật mới là đạo diễn tài ba hạng nhất trong tất cả.
Về phần mình, Người Leo Núi lập luận rằng chẳng qua là nghiệp vụ tình báo của bộ phận CIA Cuba kém cỏi. Ông từng làm việc cùng đội Tây Đức, chống lại Đông Đức, và ở đó CIA chỉn chu hơn rất nhiều.
Thế nhưng thành tích của CIA Tây Đức thì thế nào? Cũng tệ chẳng kém gì thành tích của CIA Cuba. Sau khi Bức tường Berlin sụp đổ, điệp viên Đông Đức Markus Wolf đã viết trong hồi ký vào cuối những năm 1980:
Chúng tôi ở vào một tình thế cực kỳ đáng thèm muốn khi biết rằng không có lấy một đặc vụ CIA nào từng làm việc cho Tây Đức mà không biến thành điệp viên hai mang hoặc không làm việc cho chúng tôi ngay từ đầu. Theo lệnh của chúng tôi, tất cả bọn họ đều thận trọng trao cho người Mỹ những thông tin được chọn lọc và những thông tin sai lệch.
Trên thực tế, bộ phận Tây Đức vốn được coi là chỉn chu lại phải nhận một phát bắn đau đớn nhất trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Aldrich Ames, một trong những sĩ quan cao cấp nhất phụ trách điều tra hoạt động phản gián Xô Viết đến cuối cùng lại làm việc cho Xô Viết. Sự phản bội của ông ta đã dẫn đến những cuộc bắt giữ – và xử tử – vô số điệp viên người Mỹ ở Nga. El Alpinista biết ông này. Tất cả các sĩ quan cấp cao trong cơ quan đều biết. “Tôi không đánh giá cao ông ta lắm”, Người Leo Núi nói, “bởi vì tôi biết ông ta làm một gã bợm lười nhác”. Nhưng ông và các đồng nghiệp không bao giờ nghi ngờ Ames là một kẻ phản bội. “Đối với những tay kỳ cựu, thì thật khó mà tin nổi chuyện một người của phe ta như Ames lại có thể bị đối phương lôi kéo”, ông nói. “Tất cả chúng tôi đều chết điếng khi biết rằng một đồng đội có thể phản bội chúng tôi như thế”.
Người Leo Núi là một trong những nhân vật tài cán nhất trong một tổ chức tinh vi nhất trên thế giới. Ấy thế mà có đến ba lần ông bị đáp trả một cách tức tưởi – đầu tiên là bởi Fidel Castro, tiếp đến là những người Đông Đức, và cuối cùng, là ngay chính trong đại bản doanh của CIA, bởi một tên bợm rượu biếng nhác. Và nếu như người giỏi nhất của CIA còn có thể lừa mị hoàn toàn như thế, nhiều lần như thế, thì tất cả những người còn lại như chúng ta sẽ thế nào?
Câu đố số một: Tại sao chúng ta không thể nói khi nào một người lạ ngay trước mặt đang nói dối trắng trợn vào mặt ta?