Dune: Xứ Cát là một trong những cuốn tiểu thuyết khoa học giả tưởng bán chạy nhất mọi thời đại. Không chỉ là sự lựa chọn của những người hâm mộ các tác phẩm Chúa Nhẫn, Chiến Tranh Giữa Các Vì Sao…, Xứ Cát cũng chinh phục được độc giả ở mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp và sở thích. Điều này là nhờ vào sự đa dạng và phức tạp của con người và không gian trong truyện, sự tinh tế trong xây dựng tâm lý, cốt truyện hấp dẫn, căng thẳng và bất ngờ, khối lượng kiến thức khổng lồ, cũng như những tư tưởng sâu sắc về tôn giáo, tự do, tình yêu, sự sống và cái chết… Xứ Cát đã được đánh giá cao ngay khi ra mắt, đoạt giải Nebula và Hugo trong những năm đầu và trở thành tiểu thuyết khoa học giả tưởng bán chạy nhất mọi thời đại.
Tương tự như J.R.R. Tolkien đã tạo ra vũ trụ Middle-earth hoành tráng cho Lord of the Rings, Frank Herbert cũng sáng tạo ra một vũ trụ độc đáo – Dune Universe – là nền tảng cho loạt truyện nổi tiếng Xứ Cát. Vũ trụ này quá rộng lớn để tóm tắt trong một bài viết, và thậm chí cả bản thuật ngữ ở cuối Xứ Cát cũng chưa đủ để hiểu sâu hơn về nó. Để hiểu rõ hơn về Vũ trụ Dune, người đọc cần có niềm đam mê thực sự, cam kết nghiêm túc và kiên nhẫn. Người đọc cũng có thể tham khảo các nguồn thông tin như Wikipedia để nắm vững hơn về kích thước và độ phức tạp của nó.
Xứ Cát thực sự là một tác phẩm kinh điển của văn học khoa học giả tưởng và là một trong những cuốn sách kinh điển của văn học nói chung. Mời các bạn đón đọc DUNE 1:Xứ Cát của tác giả Frank Herbert.
—
“Một trong những tượng đài tiểu thuyết khoa học giả tưởng hiện đại.” – Chicago Tribune
“Không gì sánh nổi, ngoại trừ Chúa nhẫn.” – Arthur C. Clarke
“Sáng chói… Có tất cả những gì Xứ Cát có, và có lẽ còn nhiều hơn nữa.” – Galaxy Magazine
“Sự kiện lớn.” – Los Angeles Times
“Nơi đây có thứ dành cho tất cả những ai yêu thích khoa học giả tưởng.” – Publishers Weekly
“Thức ăn bổ dưỡng… Món ăn đậm men say.” – Los Angeles Times
“Chuyến viếng thăm thứ tư tới Arrakis xa xôi, hấp dẫn đến từng giây phút không khác gì ba lần trước… và hợp thời đến từng chi tiết.” – Time HERETICS OF DUNE
“Một phần vĩ đại của công trình tưởng tượng… ma lực không thể phủ nhận.” – Los Angeles Herald Examiner
“Cuốn hút và thú vị… Mỗi chi tiết đều hấp dẫn, nhưng lại được che giấu dưới sự bí ẩn và chủ nghĩa thần bí.” – The Milwaukee Journal
“Chinh phục lòng người… sự bổ sung giá trị cho seri có sức sống bền bỉ và được yêu thích một cách xứng đáng này.” – The New York Times
“Bức tranh toàn cảnh về một xã hội ngoài hành tinh hoàn thiện và chi tiết hơn bất kỳ tác giả nào trong lĩnh vực này từng dựng được… Một câu chuyện lôi cuốn vừa bởi hành động vừa bởi tầm nhìn triết học.” – Washington Post Book World
—
Quyển Một: XỨ CÁT
Lúc khởi đầu là thời điểm cần phải cực kỳ cẩn trọng, sao cho mọi cán cân đều chính xác. Điều này mỗi nữ tu của dòng Bene Gesserit đều biết. Do vậy, để bắt đầu nghiên cứu về cuộc đời Muad’Dib, trước hết hãy cẩn trọng đặt Người vào đúng thời đại của Người: sinh vào năm 57 dưới thời trị vì của Hoàng đế Padishah Shaddam Đệ Tứ. Và hãy đặc biệt cẩn trọng đặt Muad’Dib vào đúng nơi vốn là xứ sở của Người: hành tinh Arrakis. Chớ bị đánh lừa bởi việc Người ra đời ở Caladan và sống mười lăm năm đầu đời ở đây. Arrakis, hành tinh được biết đến dưới cái tên Xứ Cát, mãi mãi là mảnh đất quê hương Người.
– trích “Sách về Muad’Dib” của Công chúa Irulan
Trong tuần lễ trước khi họ khởi hành đi Arrakis, khi tình trạng nhốn nháo lăng xăng đã trở nên điên cuồng đến mức gần như không chịu nổi, một bà già đến thăm mẹ của cậu bé tên Paul.
Đó là một đêm ấm áp ở lâu đài Caladan; cái đống đá cổ xưa từng là nơi cư ngụ của suốt hai mươi sáu thế hệ gia đình Asteides mang cảm giác toát mồ hôi lạnh mà nó thường có mỗi khi tiết trời thay đổi.
Bà lão được dẫn vào theo cửa phụ, đi dọc hành lang có mái vòm kế bên phòng Paul, và được phép đứng ngắm cậu bé một lát trong khi cậu nằm trên giường.
Dưới ánh sáng tù mù của ngọn đèn treo móc sát sàn nhà, cậu bé đang thức nhìn thấy bóng một người đàn bà to lớn đứng ở cửa phòng cậu, trước mẹ cậu một bước. Bà lão giống hệt một bóng ma phù thủy – mớ tóc như đám mạng nhện rối nùi, mũ trùm đầu che kín khuôn mặt, cặp mắt như hai viên kim cương lấp lánh.
“Thằng bé có hơi nhỏ con so với tuổi của nó không, Jessica?” bà lão hỏi. Giọng bà ta khò khè, đặc giọng mũi, giống hệt tiếng đàn baliset lạc điệu.
Mẹ Paul trả lời bằng giọng trầm êm ái: “Người nhà Atreides vốn trưởng thành muộn so với chúng bạn, thưa Mẹ Chí tôn.”
“Ta có nghe thế, có nghe thế,” bà lão khò khè. “Nhưng thằng bé cũng mười lăm tuổi rồi.”
“Vâng, thưa Đức bà.”
“Nó đang thức và nghe chúng ta nói chuyện,” bà lão nói. “Thằng ranh con quỷ quyệt.” Bà ta cười tủm tỉm. “Nhưng người của hoàng tộc cần phải quỷ quyệt. Nếu nó thực sự là Kwisatz Haderach… ừm…”
Nằm giữa hai cái bóng hắt lên giường, Paul khẽ ti hí mắt. Hai hình bầu dục sáng quắc – đôi mắt của bà lão – dường như giãn ra và bừng sáng khi nhìn chằm chằm vào cậu bé.
“Ngủ ngon nhé, thằng ranh con quỷ quyệt,” bà lão nói. “Ngày mai ngươi sẽ phải huy động tất cả khả năng ngươi có để gặp gom jabbar của ta đấy.”
Rồi bà ta quay đi, đẩy mẹ cậu bé ra ngoài và đóng sập cửa lại.
Paul nằm không ngủ, băn khoăn: Gom jabbar là cái gì vậy?
Trong tất cả sự xáo trộn diễn ra suốt thời kỳ biến động này, bà lão là điều kỳ lạ nhất cậu từng thấy.
Mẹ Chí tôn.
Lại còn cái kiểu bà ta gọi Jessica mẹ cậu như gọi một người hầu gái bình thường chứ không đúng với địa vị của bà – một Lệnh bà Bene Gesserit, tì thiếp của Công tước và là mẹ của người thừa kế tước Công.
Liệu gom jabbar có phải là một cái gì đó ở Arrakis mà ta phải biết trước khi gia đình ta đến đó không? cậu thầm hỏi.
Cậu nói to những từ lạ lùng của bà ta: Gom jabbar… Kwisatz Haderach.
Có quá nhiều thứ phải học. Arrakis là một hành tinh khác Caladan đến nỗi trí óc Paul quay cuồng với những kiến thức mới.Arrakis – Xứ Cát – Hành tinh Sa mạc.
Thufir Hawat, Thủ lĩnh đội Sát thủ của cha cậu giải thích: kẻ thù không đội trời chung của họ, bọn Harkonnen, đã sống ở Arrakis tám mươi năm, chiếm giữ hành tinh này làm bán thái ấp, ký hợp đồng với Công ty CHOAM để khai thác melange, loại hương dược có khả năng duy trì tuổi thọ. Bây giờ bọn Harkonnen đã ra đi nhường chỗ cho Gia tộc Atreides đến tiếp quản Arrakis làm thái ấp – đấy có vẻ như một chiến thắng của Công tước Leto. Tuy nhiên, Hawat đã nói, cái sự có vẻ này chứa đựng hiểm họa chết người, vì Công tước Leto là người được các Đại Gia tộc trong Landsraad ái mộ.
“Một người được ái mộ sẽ làm dấy lên lòng ghen tị của những kẻ có quyền lực,” Hawat nói.
Arrakis – Xứ cát – Hành tinh Sa mạc.
Paul thiếp đi, mơ thấy một cái hang ở Arrakeen, những con người yên lặng di chuyển vòng quanh cậu trong ánh sáng lờ mờ của những quả đèn cầu. Không khí thật trang nghiêm và khi lắng nghe một âm thanh yếu ớt – tiếng nước chảy tí tách – tí tách – tí tách, cậu cảm thấy nơi đây giống như thánh đường vậy. Ngay cả khi chìm trong giấc mơ, Paul vẫn biết cậu sẽ nhớ về nó khi tỉnh giấc. Cậu luôn nhớ những giấc mơ là điềm báo.
Giấc mơ tan dần.
Paul tỉnh giấc, nhận ra mình đang nằm trên giường ấm nệm êm – suy nghĩ… suy nghĩ. Ở lâu đài Caladan này, cậu không có trò chơi hay bạn cùng lứa tuổi, nên có lẽ khi phải tạm biệt nó thì cũng chẳng đáng buồn. Bác sĩ Yueh, thầy giáo của cậu, đã nói bóng gió rằng hệ thống giai cấp faufreluches ở Arrakis không được duy trì nghiêm ngặt. Hành tinh này che chở cho những người sống ở rìa sa mạc vốn không có vị caid hoặc bashar nào cai quản: cái giống người sống vật vờ trên cát gọi là Fremen, không được thống kê theo Bộ Điều tra Dân số Hoàng gia.
Arrakis – Xứ Cát – Hành tinh Sa mạc.
Paul cảm nhận được sự căng thẳng của chính mình, bèn quyết định thực hành một trong những bài tập thân-trí mà mẹ đã dạy cậu. Ba hơi thở nhanh khởi đầu các phản ứng: cậu chìm vào nhận thức được thả trôi… tập trung vào ý thức… giãn nở động mạch chủ… tránh sự phân tâm của ý thức… ý thức theo lựa chọn… máu được làm giàu và nhanh chóng tràn đầy các vùng quá tải… người ta không chỉ dựa vào bản năng để giành được tự do – an toàn – thức ăn… ý thức động vật không vượt ra ngoài khoảnh khắc hiện tại cũng không vươn đến cái ý nghĩ rằng nạn nhân của nó có thể bị tuyệt chủng… con vật hủy diệt mà không tạo sinh… lạc thú của con vật gần với cấp độ cảm giác mà tránh những gì dựa trên tri giác… con người cần một mạng lưới nền để qua đó nhìn thấy vũ trụ của y… ý thức tập trung theo lựa chọn, điều này tạo thành mạng lưới của mi… tính chỉnh thể của thể xác theo dòng máu-thần kinh phù hợp với nhận thức sâu xa nhất về các nhu cầu của tế bào… mọi sự vật/tế bào/thực thể đều vô thường… hãy nỗ lực đạt tới dòng chảy thường hằng ở bên trong…
Bài học ấy cứ chuyển vần, chuyển vần, vần chuyển mãi trong nhận thức được thả trôi của Paul.
Khi bình minh hắt ánh vàng vào ngưỡng cửa sổ phòng Paul, cậu có thể cảm nhận được nó qua mí mắt đang khép của mình, cậu mở mắt, nghe thấy tiếng ồn ào hối hả đã trở lại trong lâu đài, nhìn thấy những xà nhà trang trí hoa văn quen thuộc trên trần phòng ngủ.
Cửa phòng mở ra và mẹ cậu ngó vào trong, mái tóc màu đồng được cột lên đỉnh đầu bằng một sợi ruy băng màu đen, khuôn mặt hình trái xoan vô cảm và đôi mắt xanh nghiêm nghị.
“Con dậy rồi à,” nàng nói. “Con ngủ ngon chứ?”
“Ngon ạ.”
Cậu quan sát chiều cao của mẹ, nhận thấy một chút căng thẳng toát ra từ hai vai khi mẹ chọn quần áo cho cậu từ các giá để đồ trong phòng. Người khác thì hẳn đã không nhận ra sự căng thẳng này, nhưng mẹ đã huấn luyện cậu theo Phương pháp Bene Gesserit – quan sát từ những chi tiết nhỏ nhặt nhất. Mẹ quay lại, mang cho cậu chiếc áo lễ phục. Chiếc áo có phù hiệu chim ưng Atreides màu đỏ trên túi ngực.
“Mặc quần áo nhanh lên,” nàng nói. “Mẹ Chí tôn đang chờ.”
“Con từng mơ thấy bà ấy rồi,” Paul nói. “Bà ấy là ai vậy?”
“Bà là cô giáo của mẹ ở trường Bene Gesserit. Bây giờ, bà là Người Nói Sự thật của Hoàng đế. Paul này…” Nàng ngập ngừng. “Con phải kể với bà ấy về các giấc mơ của con.”
“Con sẽ kể. Có phải vì bà ấy mà chúng ta chiếm được Arrakis không?”
“Chúng ta không chiếm Arrakis.” Jessica khẽ phủi bụi trên một chiếc quần, treo nó cùng áo vest lên giá quần áo cạnh giường. “Đừng để Mẹ Chí tôn phải chờ.”
Paul ngồi dậy, ôm đầu gối. “Gom jabbar là cái gì vậy?”
Lại một lần nữa, nhờ sự huấn luyện của mẹ, Paul nhận thấy rõ ràng sự ngắc ngứ hầu như vô hình của mẹ, một dấu hiệu lo lắng mà cậu cảm thấy dường như là nỗi sợ hãi.
Jessica tiến về phía cửa sổ, kéo rộng tấm rèm, đăm đăm nhìn vượt qua vườn cây ăn quả bên sông về phía núi Syubi. “Con sẽ biết về… gom jabbar, chẳng lâu nữa đâu,” nàng nói.
Cậu nhận thấy nỗi sợ hãi trong giọng mẹ và tự hỏi tại sao.
Jessica nói mà không quay đầu lại. “Mẹ Chí tôn đang đợi trong phòng khách. Con hãy nhanh lên.”
Mẹ Chí tôn Gaius Helen Mohiam ngồi trên chiếc ghế trang trí bằng thảm nhìn hai mẹ con cậu bé tiến lại gần. Cửa sổ ở hai bên trái phải của bà nhìn xuống khúc quanh phía Nam của dòng sông và những vùng đất nông nghiệp màu mỡ do gia đình Atreides sở hữu, nhưng Mẹ Chí tôn chẳng ngó ngàng gì đến khung cảnh ấy. Sáng nay bà ta đã cảm thấy tuổi già của mình, nên bà ta bực bội không ít. Bà ta quy trách nhiệm cho chuyện du hành không gian và việc hợp tác cùng cái Hiệp hội Không gian đáng nguyền rủa với cái kiểu lén lén lút lút của họ. Nhưng đây là sứ mạng đòi hỏi đích thân một Bene Gesserit Thấu thị phải quan tâm tới. Ngay cả Người Nói Sự thật của Hoàng đế Padishah cũng không thể trốn tránh trách nhiệm đó khi nghĩa vụ yêu cầu.
Quỷ tha ma bắt cái đồ Jessica ấy! Mẹ Chí tôn nghĩ. Giá như nó sinh cho chúng ta một đứa con gái theo đúng mệnh lệnh thì đâu đến nỗi!
Còn cách chiếc ghế ba bước chân thì Jessica dừng lại, khẽ nhún đầu gối cúi chào, tay trái chạm nhẹ vào mép váy. Paul hơi cúi người theo đúng kiểu học được từ thầy dạy khiêu vũ của cậu – cách chào được sử dụng “khi không chắc chắn về vai vế của người khác.”
Những sắc thái trong cách chào hỏi của Paul không qua khỏi mắt Mẹ Chí tôn. Bà nói: “Nó là người thận trọng đấy, Jessica ạ.”
Jessica đưa tay nắm vai Paul, siết chặt. Trong khoảng thời gian một nhịp tim, gan bàn tay nàng run lên vì sợ hãi. Rồi nàng cố gắng tự chủ. “Cháu nó được dạy dỗ như thế, thưa Đức bà.”
Mẹ sợ cái gì nhỉ? Paul tự hỏi.
Bà lão quan sát Paul bằng một cái nhìn thâu tóm tất cả trong khoảnh khắc: khuôn mặt trái xoan giống Jessica, nhưng xương cốt mạnh mẽ… mái tóc: thừa hưởng màu đen nhánh của Công tước nhưng lông mày lại giống ông ngoại, người không thể gọi tên ra, và cái mũi mỏng khinh khỉnh kia; hình dáng đôi mắt xanh lục luôn nhìn trực diện: giống hệt Lão Công tước, người ông nội quá cố.
Hừ, từng có một người hiểu rõ sức mạnh của vẻ anh minh dũng lược, ngay cả khi đã chết, Mẹ Chí tôn nghĩ.
“Dạy dỗ là một chuyện,” bà ta nói, “còn tố chất lại là chuyện khác. Rồi chúng ta sẽ thấy.” Đôi mắt già nua của bà ta phóng một cái nhìn hà khắc vào Jessica. “Hãy để chúng ta lại với nhau. Ta ra lệnh cho ngươi thực tập phép thiền định bình an.”
Jessica thả tay khỏi vai Paul. “Bẩm Mẹ Chí tôn, con…”
“Này Jessica, ngươi biết đó là mệnh lệnh phải thực hiện.”
Paul ngước nhìn mẹ, bối rối.
Jessica vươn thẳng người. “Thưa vâng… tất nhiên rồi.”
Paul lại nhìn Mẹ Chí tôn. Cử chỉ lễ phép và nỗi kính sợ thấy rõ của mẹ cậu đối với bà lão này nhắc nhở cậu phải cẩn thận. Thế nhưng cậu vẫn thấy vừa lo lắng vừa giận dữ trước nỗi sợ hãi mà cậu có cảm giác đang tỏa ra từ mẹ.
“Paul…” Jessica hít thở sâu. “… thử thách mà con sắp nhận này… nó rất quan trọng đối với mẹ.”
“Thử thách ư?” Cậu ngước nhìn mẹ.
“Hãy nhớ rằng con là con trai Công tước,” Jessica nói. Nàng xoay người sải bước ra khỏi phòng trong tiếng váy sột soạt khô khốc. Cánh cửa đóng chặt lại sau lưng nàng.
Paul đối diện với bà lão, kiềm chế sự giận dữ. “Ai dám đuổi Lệnh bà Jessica như thể bà là một người hầu gái?”
Một cái cười khẩy nơi khóe miệng nhăn nheo: “Lệnh bà Jessica từng là hầu gái của ta trong suốt mười bốn năm ở trường, cậu nhóc ạ.” Bà ta gật đầu. “Và cũng là cô hầu tốt nữa. Giờ thì ngươi lại đây!”
Mệnh lệnh đưa ra nhanh chóng và bất ngờ như một nhát roi quất vào cậu. Chưa kịp nghĩ gì thì Paul nhận ra mình đã tuân theo nó. Dùng Giọng nói để điều khiển mình, cậu nghĩ. Cậu dừng lại khi bà ta ra hiệu, đứng cạnh đầu gối bà ta.
“Thấy cái này không?” bà ta hỏi. Bà ta nhấc từ những nếp gấp áo choàng lên một hộp kim loại hình lập phương màu xanh lục mỗi cạnh chừng mười lăm phân. Bà ta xoay chiếc hộp và Paul nhìn thấy một mặt đã mở sẵn – tối om và đáng sợ một cách kỳ lạ. Không có chút ánh sáng nào lọt vào khoảng tối đen mở hoác đó.
“Đút tay phải vào trong hộp,” bà ta ra lệnh.
Nỗi sợ hãi vụt xuyên qua Paul. Cậu định lùi lại, nhưng bà lão nói: “Ngươi vâng lời mẹ như thế này đấy hả?”
Cậu nhìn lên đôi mắt sáng quắc như mắt chim.
Chầm chậm, cảm thấy sự ép buộc và không tài nào cưỡng lại được, Paul đút tay vào trong hộp. Đầu tiên cậu cảm thấy lạnh khi bóng tối phủ quanh tay cậu, rồi chất kim loại trơn tuột áp vào các ngón tay và một cảm giác kiến bò như thể tay cậu tê dại.
Khuôn mặt bà lão toát lên vẻ hung tợn như của loài thú dữ. Bà ta nhấc tay phải ra khỏi cái hộp và gí sát bàn tay vào một bên cổ Paul. Cậu nhìn thấy ánh kim loại ở tay bà ta và định quay đầu về phía nó.
“Đứng yên đấy!” bà ta cáu kỉnh.
Lại dùng Giọng nói! Cậu chuyển sự chú ý quay trở lại khuôn mặt bà ta.
“Ta giữ gom jabbar ở cổ ngươi,” bà ta nói. “Gom jabbar, kẻ thù siêu việt. Nó là cái kim có một giọt thuốc độc ở mũi. Ái chà chà! Chớ có lùi lại kẻo ngươi sẽ cảm thấy chất độc đấy.”
Paul cố gắng nuốt nước bọt trong cổ họng khô khốc. Cậu không thể rời mắt khỏi khuôn mặt già nua nhăn nheo, đôi mắt lấp lánh, bộ nướu nhợt nhạt bao quanh hàm răng kim loại màu bạc lóe sáng khi bà ta nói.
“Con trai của Công tước hẳn phải biết về chất độc,” bà ta nói. “Cái kiểu của thời đại chúng ta là thế, phải không nào? Musky, để đầu độc đồ uống của ngươi. Aumas, để đầu độc thức ăn của ngươi. Chất độc phát tác nhanh, chất độc phát tác chậm và loại phát tác trung bình. Còn đây là loại mới dành cho ngươi: gom jabbar. Nó chỉ dùng để giết thú vật.”
Niềm kiêu hãnh đã chiến thắng nỗi sợ hãi của Paul. “Bà dám ám chỉ con trai Công tước là một con vật sao?” cậu hỏi.
“Thì cứ coi như ta cho rằng ngươi có thể là con người,” bà ta nói. “Đứng yên! Ta cảnh cáo trước là đừng có cố gắng giật lùi lại. Ta già rồi nhưng tay ta vẫn có thể đâm cái kim này vào cổ ngươi trước khi ngươi thoát khỏi ta đấy.”
“Bà là ai?” cậu thì thầm. “Làm thế nào bà lừa được mẹ tôi bỏ tôi lại một mình với bà? Có phải bà thuộc bọn Harkonnen không?”
“Bọn Harkonnen? Chúa ơi, ồ không! Giờ thì im lặng nào.” Một ngón tay khô héo chạm vào cổ cậu và cậu cố gắng kiềm chế sự thôi thúc mạnh mẽ muốn lao ra ngoài.
“Tốt,” bà ta nói. “Ngươi đã vượt qua thử thách thứ nhất. Bây giờ đến phần còn lại: nếu rút tay ra khỏi hộp, ngươi sẽ chết. Đây là quy tắc duy nhất. Giữ nguyên tay trong hộp thì sống. Rút ra thì chết.”
Paul hít một hơi thở sâu để kiềm chế cơn run. “Nếu ta gọi ra ngoài kia, chỉ trong vài giây bọn người hầu sẽ xông vào và bà sẽchết.”
“Bọn người hầu sẽ không qua được mẹ ngươi đang đứng canh gác ngoài cửa. Cứ tin thế đi. Mẹ ngươi đã vượt qua thử thách này. Bây giờ đến lượt ngươi. Hãy lấy đó làm vinh dự. Chúng ta hiếm khi thực hiện thử thách này với một cậu bé.”
Tính hiếu kỳ làm nỗi sợ hãi của Paul giảm xuống mức có thể kiểm soát được. Cậu nhận ra sự thật trong giọng bà lão, không thể phủ nhận sự thật ấy. Nếu mẹ cậu đứng canh gác ở phía ngoài… nếu đây thực sự là một thử thách… Và dù cho nó là gì đi nữa thì cậu cũng biết mình đã vướng vào nó, đã bị bàn tay đặt ở cổ khống chế: cái gom jabbar. Cậu nhớ lại cách đối phó ghi trong Kinh cầu nguyện Chống Nỗi sợ mà mẹ đã dạy ngoài những nghi thức Bene Gesserit.
“Ta không được sợ hãi. Sợ hãi giết chết tâm trí. Sợ hãi là cái chết nhỏ mang đến sự phá hủy hoàn toàn. Ta sẽ đối mặt với nỗi sợ. Ta sẽ để nó đi khắp người ta và xuyên qua ta. Rồi khi nó đã đi qua, ta sẽ xoay con mắt bên trong để nhìn đường đi của nó. Ở những nơi nỗi sợ đi qua chẳng còn gì cả. Chỉ còn lại chính ta.”
Cậu cảm thấy điềm tĩnh trở lại, liền nói: “Tiếp tục đi, bà lão.”
“Bà lão!” bà ta cáu kỉnh. “Ngươi can đảm đấy, không thể phủ nhận điều đó. Được thôi, rồi chúng ta sẽ thấy, sirra.” Bà ta cúi sát người, hạ giọng xuống gần như chỉ còn là tiếng thì thầm. “Ngươi sẽ cảm thấy đau đớn ở bàn tay đút trong chiếc hộp này. Đau đớn. Nhưng! Chỉ cần ngươi rút tay ra là ta sẽ đâm gom jabbar vào cổ ngươi – cái chết sẽ đến mau lẹ như đầu rơi dưới lưỡi rìu đao phủ. Hễ ngươi rút tay ra là gom jabbar sẽ đâm vào ngươi. Hiểu không?”
“Cái gì ở trong hộp vậy?”
“Sự đau đớn.”
Cậu thấy cảm giác ran ran ở tay tăng dần, mím nhẹ môi. Thế này mà là thử thách sao? cậu tự hỏi. Cảm giác ran ran trở thành cơn ngứa.
Bà lão nói: “Ngươi đã nghe kể về những con vật tự cắn đứt chân mình để thoát khỏi bẫy rồi chứ? Đó là mánh lới của loài vật. Con người thì sẽ ở nguyên trong bẫy, chịu đựng nỗi đau, giả chết để có thể giết kẻ đặt bẫy và thủ tiêu mối đe dọa cho đồng loại hắn.”
Sự ngứa ngáy biến thành cảm giác bỏng rát mơ hồ. “Tại sao bà làm việc này?” cậu hỏi.
“Để xác định liệu ngươi có phải con người không. Im lặng đi.”
Paul nắm chặt tay trái thành một quả đấm khi cái cảm giác bỏng rát tăng lên ở tay phải. Nó từ từ tăng lên: nóng dần, nóng dần, nóng… nóng dần lên. Cậu cảm thấy móng tay của bàn tay đang tự do bấm vào gan bàn tay đau nhói. Cậu cố gắng gập các ngón tay phải đang bị thiêu đốt lại, nhưng chúng không cử động được.
“Nóng quá,” cậu thì thầm.
“Im lặng!”
Cơn đau lan đến tận cánh tay. Mồ hôi toát ra trên trán cậu. Mọi đường gân thớ thịt kêu gào cậu rút tay ra khỏi cái hố nóng bỏng… nhưng… còn gom jabbar. Không quay đầu lại, cậu cố gắng đưa mắt nhìn cây kim khủng khiếp treo lơ lửng bên cổ. Cậu cảm thấy mình đang thở hổn hển bèn cố gắng thở chậm lại nhưng không thể.
Đau!
Thế giới của cậu trở nên trống rỗng ngoại trừ bàn tay đang đắm chìm trong nỗi đau đớn cực độ, cái khuôn mặt già nua cách cậu vài phân đang nhìn chòng chọc vào cậu.
Hai môi cậu khô nứt đến nỗi khó mà tách được chúng ra.
Nóng như thiêu! Nóng như thiêu!
Cậu tưởng như có thể cảm thấy được làn da quắn lại sém đen trên bàn tay quằn quại đau đớn kia, lớp thịt giòn tan rồi rơi xuống cho đến khi chỉ còn trơ lại những cái xương đen như than.
Nó đã dừng lại!
Như thể một cái công tắc được tắt đi, cơn đau đã dừng lại.
Paul cảm thấy tay phải run lên, mồi hôi đầm đìa khắp người.
“Đủ rồi,” bà lão lầm bầm. “Kull wahad! Chưa từng có đứa con gái nào chịu đựng được đến mức này. Ta đã thực sự mong ngươi thua cuộc.” Bà ta ngả người ra phía sau, rút gom jabbar ra khỏi cổ cậu.
“Rút tay ra khỏi hộp rồi nhìn đi, cậu bé.”
Cậu nén cơn run do nỗi đau gây ra, nhìn chằm chằm vào khoảng không tối om nơi bàn tay cậu dường như tự nó muốn tiếp tục ở yên trong đó. Ký ức về nỗi đau đớn ngăn chặn mọi cử động. Lý trí bảo cậu rằng khi rút ra khỏi hộp thì tay cậu chỉ còn là cái chỏm cụt đen thui.
“Làm đi!” bà ta cáu kỉnh.
Cậu giật tay ra khỏi hộp, nhìn trân trối vào nó đầy kinh ngạc. Không có một dấu vết nào. Không có dấu hiệu của sự đau đớn trên da thịt. Cậu đưa tay lên, xoay xoay, gập các ngón tay lại.
“Đau đớn do phản ứng của thần kinh,” bà nói. “Ta không thể đi loanh quanh gây thương tật cho những người tiềm năng. Dẫu vậy, có những người sẵn sàng trả giá để biết được bí mật của chiếc hộp này.” Bà ta đút nhanh nó vào những nếp gấp áo choàng.
“Nhưng còn cơn đau…” cậu nói.
“Cơn đau,” bà ta khịt mũi. “Một con người có thể không thèm đếm xỉa đến bất cứ dây thần kinh nào trong cơ thể.”
Paul thấy tay trái đau nhức bèn duỗi các ngón tay nãy giờ nắm chặt, rồi nhìn bốn vết lằn đỏ như máu ở những chỗ móng tay bấm vào gan bàn tay. Cậu thả tay xuống, nhìn bà lão: “Bà từng làm việc này với mẹ tôi à?”
“Ngươi đã bao giờ sàng cát qua một cái giần chưa?” bà ta hỏi.
Câu hỏi đột ngột lạc ra ngoài chủ đề của bà lão khiến đầu óc cậu choáng váng, đẩy nó lên một nhận thức cao hơn. Sàng cát qua giần. Cậu gật đầu.
“Bene Gesserit chúng ta sàng lọc mọi người để tìm ra những con người thực thụ.”
Cậu đưa tay phải lên, hồi tưởng về cơn đau. “Và tất cả chỉ có thế thôi sao – sự đau đớn?”
“Ta đã quan sát ngươi trong cơn đau, cậu bé ạ. Đau đớn chỉ đơn thuần là cái trục của bài thử thách này. Mẹ ngươi đã chỉ cho ngươi những cách thức quan sát của chúng ta. Ta nhận thấy ở ngươi dấu hiệu sự dạy dỗ của mẹ ngươi. Thử thách của chúng ta là cơn khủng hoảng và khả năng quan sát.”
Cậu thấy sự xác quyết trong giọng bà ta, liền nói: “Đó là sự thật!”
Bà ta nhìn cậu chăm chăm. Nó cảm nhận được sự thật! Nó có thể là người đó không? Nó có thể thực sự là người đó sao?Bà ta thôi kích động, tự nhắc nhở mình: “Hy vọng làm mờ khả năng quan sát.”
“Ngươi biết khi nào người ta tin vào những điều họ nói,” bà ta nói.
“Tôi biết.”
Trong giọng nói của cậu toát ra sự hài hòa của năng lực được xác nhận qua thử thách lặp đi lặp lại. Bà ta nhận thấy điều đó, liền nói: “Có lẽ ngươi là Kwisatz Haderach. Ngồi xuống đi, anh bạn nhỏ, ngồi bên chân ta đây này.”
“Tôi thích đứng hơn.”
“Mẹ ngươi đã từng ngồi bên chân ta.”
“Tôi không phải là mẹ tôi.”
“Ngươi không ưa bọn ta, nhỉ?” Bà ta nhìn về phía cửa, gọi với ra ngoài: “Jessica!”
Cánh cửa bật mở và Jessica đứng đó nhìn trừng trừng vào phòng. Vẻ cứng rắn tan chảy khi nàng nhìn thấy Paul. Nàng gượng cười.
“Jessica, đã có lúc nào ngươi ngừng ghét ta chưa?” bà lão hỏi.
“Con vừa yêu vừa ghét Mẹ,” Jessica nói. “Ghét – là vì những đau đớn mà con không bao giờ quên. Yêu – là…”
“Chỉ là điều sơ đẳng,” bà lão nói, nhưng giọng bà thật nhẹ nhàng. “Giờ ngươi có thể vào được rồi, nhưng giữ im lặng đấy. Đóng cửa lại và lưu ý không để ai làm gián đoạn chúng ta.”
Jessica bước vào phòng, đóng cửa lại rồi đứng quay lưng về phía cửa. Con trai ta còn sống, nàng nghĩ. Con trai ta còn sống và là… con người. Ta biết nó là người… nhưng… nó còn sống. Giờ thì ta có thể tiếp tục sống rồi. Cánh cửa tì vào lưng nàng có vẻ rắn chắc và có thực. Mọi thứ trong phòng thật gần gũi và ép mạnh vào các giác quan của nàng.
Con trai ta vẫn sống.
Paul nhìn mẹ. Mẹ đã nói sự thật. Cậu muốn rời khỏi đây một mình và suy nghĩ thông suốt về trải nghiệm này, nhưng cậu biết nếu chưa được phép thì cậu không thể đi được. Bà lão này có quyền lực đối với cậu. Họ đã nói sự thật. Mẹ cậu đã trải qua thử thách này. Chắc hẳn nó phải có mục đích kinh khủng… cơn đau và nỗi sợ hãi thật khủng khiếp. Cậu hiểu những mục đích kinh khủng. Chúng nhằm đến những điều hầu như bất khả. Chúng là cái không thể thiếu của chính chúng. Paul cảm thấy mình đã bị tiêm nhiễm cái mục đích kinh khủng này. Nhưng cậu vẫn chưa hiểu cái mục đích kinh khủng này là gì.
“Một ngày nào đó, cậu bé ạ,” bà lão nói, “ngay cả ngươi cũng có thể phải đứng ngoài cửa như thế. Việc này cần phải làm nhiều đấy.”
Paul nhìn xuống bàn tay đã nếm trải nỗi đau, rồi ngước nhìn Mẹ Chí tôn. Trong giọng nói của bà chứa đựng một sự khác biệt so với bất cứ giọng nói nào khác cậu từng nghe. Những từ ngữ có đường viền sáng rực. Chúng thật sắc sảo. Cậu cảm thấy bất cứ câu hỏi nào cậu có thể đặt ra cho bà sẽ đều đem lại một câu trả lời có khả năng nâng cậu lên khỏi thế giới thể xác mà hướng về một cái gì đó vĩ đại hơn.
“Tại sao bà thử thách để tìm con người?” cậu hỏi.
“Để ngươi được tự do.”
“Tự do ư?”
“Đã có thời con người chuyển giao sự tư duy của họ sang máy móc với hy vọng điều đó cho họ tự do. Nhưng nó lại chỉ cho phép những người khác cùng với máy móc biến họ thành nô lệ.”
“Ngươi không được tạo ra một cỗ máy giống như trí óc con người,” Paul trích dẫn.
“Trích thẳng từ Thánh chiến Butler và Kinh thánh Toàn Nhân loại Màu Cam,” bà lão nói. “Nhưng Kinh thánh Màu Cam lẽ ra phải nói là: ‘Ngươi không được tạo ra một cỗ máy giả mạo trí óc loài người.’ Người đã nghiên cứu vị Mentat phục vụ Gia tộc ngươi chưa?”
“Tôi đã học hỏi cùng Thufir Hawat.”
“Cuộc Nổi dậy Lớn đã lấy đi một chỗ dựa,” bà ta nói. “Điều đó bắt buộc trí tuệ loài người phải phát triển. Trường học được mở ra để đào tạo năng lực của loài người.”
“Có phải các trường Bene Gesserit không?”
Bà lão gật đầu. “Trong số các ngôi trường cổ xưa này, chúng ta còn giữ lại được hai trường chính: Bene Gesserit và Hiệp hội Không gian. Hiệp hội, theo chúng ta nghĩ, chú trọng vào toán học gần như thuần túy. Bene Gesserit thì thực hiện một chức năng khác.”
“Chính trị,” cậu bé nói.
“Kull wahad!” bà lão nói. Bà ta nghiêm khắc liếc nhìn Jessica.
“Con không nói với nó, thưa Mẹ Chí tôn,” Jessica nói.
Mẹ Chí tôn chuyển sự chú ý sang Paul. “Chỉ bằng rất ít manh mối mà ngươi đã đoán được thì giỏi đấy,” bà ta nói. “Đúng là chính trị. Trường Bene Gesserit nguyên thủy được dẫn dắt bởi những người vốn nhận ra rằng cần phải có một sợi chỉ xuyên suốt trong các vấn đề của loài người. Họ thấy không thể có được sự xuyên suốt như vậy nếu không tách biệt loài người với loài vật – nhằm mục đích gây giống.”
Lời nói của bà lão đột nhiên mất đi sự sắc sảo đặc biệt đối với Paul. Cậu cảm thấy một sự xúc phạm đối với cái mà mẹ cậu gọi là bản năng công chính của cậu. Không phải là Mẹ Chí tôn nói dối cậu. Hiển nhiên là bà ta tin vào những điều mình nói. Nó là một cái gì đó sâu xa hơn, một cái gì đó ràng buộc với mục đích kinh khủng của cậu.
Cậu nói: “Nhưng mẹ tôi bảo nhiều Bene Gesserit của các trường không biết gì về tổ tông của họ.”
“Các dòng giống di truyền luôn được ghi lại trong hồ sơ của chúng ta,” bà ta nói. “Mẹ ngươi biết rằng hoặc cô ta thuộc dòng dõi Bene Gesserit hoặc dòng giống của cô ta tự nó có thể được thừa nhận.”
“Thế tại sao mẹ tôi không biết cha mẹ mình là ai?”
“Một số người biết… Nhiều người không biết. Chẳng hạn, bọn ta lẽ ra đã từng muốn cho cô ta giao phối với một người họ hàng gần để đạt được một số đặc tính di truyền trội. Bọn ta có nhiều lý do.”
Lại một lần nữa, Paul cảm thấy sự xúc phạm đối với sự công chính. Cậu nói: “Chính bà đã thực hiện việc đó nhiều lần.”
Mẹ Chí tôn nhìn cậu chăm chăm, tự hỏi: Có phải ta nghe thấy sự chỉ trích trong giọng nó không? “Chúng ta mang một gánh nặng lớn,” bà ta nói.
Paul cảm thấy cậu đang càng lúc càng vượt ra khỏi cú sốc của bài thử thách. Cậu chĩa cái nhìn chằm chằm đầy dò xét vào bà ta mà nói: “Bà nói có thể tôi là… Kwisatz Haderach. Đó là gì vậy, một gom jabbar mang dạng người sao?”
“Paul,” Jessica nói. “Con không được nói giọng đó với…”
“Ta sẽ xử lý việc này, Jessica,” bà lão nói. “Nào, cậu bé, ngươi muốn biết về thuốc của Người Nói Sự thật phải không?”
“Bà uống thuốc này để nâng cao năng lực phát hiện lời nói dối,” cậu nói. “Mẹ tôi nói vậy.”
“Ngươi đã bao giờ thấy trạng thái xuất thần truy sự thật chưa?”
Cậu bé lắc đầu. “Chưa.”
“Đây là loại thuốc nguy hiểm,” bà ta nói, “nhưng nó giúp nhìn thấu bên trong. Khi một Người Nói Sự thật uống thuốc này, cô ta có thể nhìn thấy nhiều chỗ trong ký ức của cô ta – trong ký ức của thân xác cô ta. Bọn ta nhìn thấu suốt rất nhiều con đường trong quá khứ… nhưng chỉ là những con đường của đàn bà.” Giọng bà ta đượm buồn. “Thế đó, có một nơi mà không Người Nói Sự thật nào thấy được. Bọn ta bị nơi ấy cự tuyệt, bị nó làm cho khiếp sợ. Người ta nói sẽ có ngày có một người đàn ông đến và nhờ thuốc này mà tìm ra con mắt bên trong của y. Người đó sẽ nhìn thấy nơi mà bọn ta không thể tới – trong cả quá khứ của đàn ông lẫn đàn bà.”
“Kwisatz Haderach của bà phải không?”
“Đúng, người có thể ở nhiều nơi cùng một lúc: chính là Kwisatz Haderach. Rất nhiều đàn ông đã thử thuốc này… rất nhiều, nhưng không ai thành công cả.”
“Họ đã thử và thất bại, tất cả bọn họ sao?”
“Ồ, không.” Bà ta lắc đầu. “Họ đã thử và đã chết.”