Ghi 1954-1960
Từ khi xuất bản lần đầu tiên và duy nhất vào năm 2001, cuốn sách mang tính kỷ yếu này cung cấp nguồn tư liệu quý giá về một thời kỳ đầy biến động của lịch sử Việt Nam trong thế kỷ 20. Khi đọc lại các ghi chú của nhà thơ Trần Dần (1926-1997) về giai đoạn Cải cách Ruộng đất và Nhân văn-Giai phẩm, tôi vẫn bị ấn tượng bởi sự chân thành tận cùng, chân thực đến tàn nhẫn của ông với chính mình. Cuộc chiến với thời đại của ông không chỉ là một bi kịch từ tư cách nạn nhân, mà phức tạp và đa chiều hơn nhiều: Ông cũng là một tác nhân và trước hết là một chứng nhân lỗi lạc, với khả năng quan sát, phân tích, ghi nhận, diễn đạt hiếm có và một lí tưởng nghệ thuật sôi động và hâm mộ.
Ghi 1954-1960 của Trần Dần được tái bản trùng dịp kỷ niệm 25 năm ngày ông ra đi. Tôi đã biên tập và hiệu đính bản in năm 2001, bổ sung một số chú thích và chỉnh sửa một số chi tiết dựa trên hiểu biết ngày càng được mở rộng trong thời gian qua, hy vọng rằng cuốn sách có thể thay thế chính thức những phiên bản không rõ nguồn gốc trên mạng.
Tôi tin rằng Trần Dần sẽ rất hạnh phúc khi thấy cuốn sách này trở thành tài sản chung của cộng đồng độc giả Việt mà ông đã đóng góp một phần lớn bằng tài năng và số phận đặc biệt của mình.
Phạm Thị Hoài
Với những ý kiến đánh giá về thơ của Trần Dần, người được đánh giá là người có xu hướng đổi mới về cả hình thức (với lối thơ bậc thang) lẫn tư duy (đa chiều, triết lý…), ý kiến về thơ của Trần Dần thực sự đa dạng. Ngay sau Phong trào Thơ mới, Trần Dần đã đề xuất sáng tác thơ theo trường phái tượng trưng cùng với nhóm Dạ đài. Theo nhà thơ Dương Tường: “Thơ của Trần Dần có vẻ khó hiểu. Nhưng chính ông đã nói về sự khó hiểu một cách rất đơn giản: “Tất cả mọi giá trị chân thực và đẹp đều khó hiểu”. Mặc dù trong 30 năm, thơ của ông không được xuất bản, nhưng ông vẫn kiên trì sáng tác theo hướng nghệ thuật mà ông theo đuổi suốt đời.
Trong suốt cuộc đời, Trần Dần được cha, một viên chức kho bạc tại Nam Định, giáo dục văn học, võ thuật và hội họa, và trong số tác phẩm mà ông để lại, có cả những tác phẩm hội họa.
Nhiều đoạn văn và bài thơ của Trần Dần có hai phiên bản khác nhau, nhưng không phải vì “tam sao thất bản”. Chính nhà thơ đã tự chỉnh sửa. Ví dụ, câu thơ: “Tôi yêu đất nước này có cỏ cây làm chứng / Tôi yêu chủ nghĩa này cờ đỏ cãi cho tôi”, trong một bản xuất bản khác, ông đã sửa thành: “Tôi yêu mẹ hiền đất nước này với những cỏ hoa làm chứng / Tôi yêu tinh thần chủ nghĩa này với cờ son đang chấp cho tôi”.
Trần Dần (1926 – 1997) đã được trao Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật vào năm 2007.
Một số tác phẩm của Trần Dần đã được xuất bản: Trần Dần thơ; Đi! Đây Việt Bắc, Những ngã tư và những cột đèn; Người người lớp lớp; Đêm núm sen…Hoà bình không xuất phát từ sự sẵn sàng trừ bỏ án cho đến khi hết thời gian… Bảy năm trong văn học ý nghĩa như thế nào? Chỉ là một cái chớp mắt. Nhưng bảy năm trong cuộc sống một con người lại có ý nghĩa rất lớn! Cái chớp mắt ấy có thể kéo dài mãi không tới.” Đó là những dòng Trần Dần ghi chú ngày 7/7/1958 khi phải chịu kỷ luật treo bút ba năm. Người ta có cảm giác như ông đã đặt trước cái “mãi không tới” của ba năm, rồi cuối cùng biến thành ba mươi năm. Và một lần nữa, ông lại phải đối diện với cái mất mát ngày càng trở nên phức tạp hơn của số phận, mà ông chỉ có thể nhét nhỏ vào lỗ kim nhỏ bé của hy vọng.” Được cái hoạn nạn” thật sự là câu kết của ông, người say mê logic và chống lại lý thuyết, về “ván đời” kỳ lạ của mình. Các ghi chú của Trần Dần tập hợp trong cuốn sách này là minh chứng tự do về bảy năm mở ra và quyết định về kết quả khổ nạn đó. Đối với chúng ta, đó là những tư liệu cực kỳ quý giá về một thời kỳ văn học và lịch sử mà cho đến bây giờ vẫn còn được giữ ghi chép, nếu như có thể giữ được. Đối với Trần Dần, đó là phần mở cửa “tác phẩm dành cho một người”, tác phẩm không dự tính nhưng lại trở thành một phần lớn và nổi bật trong sự nghiệp văn học của ông, khi “ghi chép trở thành hình phạt”, khi ông tự “phải chịu tội”, tự áp đặt mình vào một “chế độ ghi chép sổ tay” ba mươi năm lặngn lẽ. Tôi không có lựa chọn nào khác ngoài việc tự mình lựa chọn trong hàng ngàn trang viết chép của Trần Dần từ 5 tập sổ tay dày đặc những dòng chép mà không dành cho công chúng để biên soạn cuốn sách này. Các đoạn được bỏ đi, được đánh dấu […], là những đoạn tôi cho rằng riêng tư cần được giữ riêng, hoặc liên quan đến những người và việc chưa vượt qua thời gian ba năm sau khi Trần Dần qua đời, hoặc các đoạn sẽ được sử dụng cho một cuốn sách khác thì sẽ phù hợp hơn. Các đoạn đánh dấu (…) là những đoạn mà tôi phải bỏ trống vì không đọc được nội dung hoặc chưa hiểu rõ ý nghĩa. Ngoài ra, tôi đã tự quyết định, mặc dù không hoàn toàn chắc chắn rằng đó là đúng, là chuyển một phần lớn cách viết chính tả riêng biệt của Trần Dần sang cách viết chính tả thông thường. Lý do cho việc này là vì tôi cảm thấy cách viết chính tả trong những ghi chú này một phần là thói quen còn nhiều tình cờ từ thời điểm đó, một phần là để viết nhanh chóng, chứ không phải là yếu tố quan trọng như trong một số tác phẩm sau này của Trần Dần. Còn lại, tôi vẫn giữ nguyên bản văn như vậy: cách viết tắt tên người, tên tổ chức, xuống dòng, gạch dưới, cách kết thúc câu, cách sử dụng lời thoại, v.v…, không chỉnh sửa, sửa đổi gì. Quá trình tổ chức tài liệu, biên soạn các phần tiểu sử, phụ lục, chú thích và danh mục đã được nhiều người đóng góp nhưng vẫn không tránh khỏi những thiếu sót cần được bổ sung dần dần. Việc bổ sung công tác này đầy đủ nhất sẽ tiếp tục công bố các phần tiếp theo trong “tác phẩm dành cho một người” này. Như vậy, kết quả của việc trừng phạt một người có thể là một món quà không ngờ tới với bao nhiêu người khác. Berlin, tháng Tư năm 2000 Phạm Thị Hoài Mời các bạn đón đọc “Ghi 1954-1960” của tác giả Trần Dần.