Ghi Đơ Môpatxăng – Isaac Babel & A. G. Daniil
Isaac Babel (1894 – 1941) được đánh giá là một trong những nhà văn Do Thái đầu tiên góp mặt trong văn học Nga với vai trò là tác giả văn xuôi Nga. Babel đã trải qua tuổi thơ và thanh niên tại Odessa, trải qua khó khăn trong khu ghetto dành riêng cho người Do Thái. Babel học rất giỏi, từ khi còn nhỏ đã học tiếng Do Thái, tiếng Pháp, Kinh Thánh, Kinh Talmut. Babel bước vào thế giới văn chương từ rất sớm, đã viết những truyện ngắn đầu tiên bằng tiếng Pháp khi 15 tuổi. Giống như Gogol, vào năm 1915, Babel đến St. Petersburg với khát vọng văn chương. Năm 1916 đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời Babel khi gặp Gorky. Gorky đồng ý xuất bản những truyện ngắn của Babel. Nhà văn lão thành khuyên Babel trải qua thực tế để có trải nghiệm sống và viết. Vì vậy, từ một thiếu niên Do Thái, Babel trở thành một lính của Quân đoàn Kỵ binh số Một, tham gia vào các hoạt động cách mạng (làm việc trong ủy ban quân sự cách mạng, làm phóng viên, làm việc tại nhà in…).
Tập đoàn quân Kỵ binh được xuất bản năm 1926 – tập hợp những truyện ngắn của Babel về cuộc sống, trận đấu của Quân đoàn Kỵ binh số Một trên mặt trận trưng bày đối đầu với quân Ba Lan và Bạch vệ trong giai đoạn những năm 20 – 30 của thế kỷ XX. Ngay khi mới xuất bản, tác phẩm này đã gây ra sự bất đồng ý kiến: một phần ủng hộ Babel, khen ngợi Tập đoàn quân Kỵ binh; một phần phê phán, lên án gay gắt tác phẩm này, thậm chí buộc tội tác giả. Sự tương phản trở thành một kỹ thuật mà Babel sử dụng hiệu quả trong các tác phẩm của mình, đặc biệt là Tập đoàn quân Kỵ binh nhằm tạo ra hàng ngàn khía cạnh cách mạng, chiến tranh và những suy tư về sự sống, cái chết…
Trong suốt 25 năm sáng tác, Babel chỉ để lại ít tác phẩm: hai vở kịch (Hoàng hôn, Maria), ba tập truyện ngắn (Tập đoàn quân Kỵ binh, Truyện ngắn Odessa, Truyện ngắn); tuy nhiên, các tác phẩm của ông đều được đánh giá rất cao, đặc biệt là truyện ngắn. Nhưng 13 năm sau khi Tập đoàn quân Kỵ binh được xuất bản (1939), Babel cùng nhiều nhà văn khác bị bắt một cách bí mật, bị ép buộc nhận các tội danh vô lý, trong đó có tội “phản bội Tổ quốc”. Ông bị đưa ra tòa án quân sự vào ngày 26/01/1940 và bị xử tử vào ngày 17/03/1941, khi ông 47 tuổi. Trong 15 năm tiếp theo, tên của ông bị xóa sổ hoàn toàn khỏi văn chương của Liên Xô. Cho đến năm 1954, các tác phẩm của ông mới được công nhận.
Tác phẩm của ông đã được dịch sang tiếng Việt.
– Babel I.E: Tuyển tập (Nguyễn Thụy Ứng dịch từ tiếng Nga, I. Erenburg và Nguyễn Thụy Ứng giới thiệu). NXB. Văn hóa thông tin, H, 2000.
“Mùa đông năm hai mươi sáu, tôi lưu trú tại Petersburg chỉ với một tấm vé giả và không một xu trên người. Người chủ nhà cho tôi ở là một giáo sư văn học Nga tên Alexey Kazansev.
Anh ta sống ở Peski, một khu phố lạnh lẽo, trống trơn, và đầy mùi. Anh kiếm tiền bằng cách dịch tiếng Tây Ban Nha; thời điểm đó Blasco Ibanez đang nổi tiếng.
Kazansev chưa từng đặt chân đến Tây Ban Nha, thậm chí là chỉ đi qua, nhưng tình yêu của anh ta với quốc gia đó đã chiếm lĩnh toàn bộ tâm hồn anh. Anh ta biết mọi lâu đài, công viên, dòng sông ở Tây Ban Nha. Ngoài tôi, khu Kazansev còn có một đống kẻ bị đẩy ra khỏi cuộc sống ngay lành. Chúng tôi sống thật đói khổ. Thỉnh thoảng, những tờ báo cải cách bỏ vài dòng chữ nhỏ đăng tin vặt của chúng tôi.
Mỗi sáng, tôi lang thang ở những khu nhà xấu xa và đồn cảnh sát.
Người hạnh phúc nhất trong số chúng tôi chính là Kazansev. Anh ta vẫn có Tây Ban Nha là Tổ quốc.
Hai mươi một tháng mười, tôi được giới thiệu tại một nhà máy Ôbukhôv, nơi làm việc không đến nổi tồi tệ, giúp tôi tránh khỏi việc nhập ngũ.
Tôi đã từ chối trở thành một gã thầy giáo.
Ngay lúc đó – với tuổi đôi muổi – tôi đã tự nhủ rằng: thà đói khát, thà bị tù đày, thà lang thang còn hơn ngồi mộng mơ ở phòng giấy suốt mười giờ mỗi ngày. Không có gì mại dâm trong những lời nguyền đó, nhưng tôi đã và sẽ không bao giờ phụ lòng.”Nhạ̇n đi. Tôi vẫn giữ nguyên tinh thần của tuyệt tác này: chúng ta được sinh ra để hồi hươ̜ng những khôn trò làm ngừ hiếm có, nhục bù luôn sống, yêu đời, chúng ta được sinh ra để làm những việc đó chứ không phải vì lý do nào khác.
Khi nghe tôi phải, Kazansev cứ xoắn sửa vô tận mềm mặt của mình, vô tù và vô cũm trờcn luôn trong đôi mắt của anh.
Vào ngày lễ Giáng Sinh, chính là lúc chúng tôi có may mắn. Lực sử Benderski, chủ nhà xuất bản của “Ansiona”, có ý định phát hành một tác phẩm mới của Môpatxăng. Việc dịch của của Raisa, vợ ông ass, đươc giao. Trò chơi của các đoàn quý tọc không tìm thấy dấu vết.
Mọi người hỏi Kazansev, người dịch tiếng Tây Ban Nha, để xem anh có biết ai có giúp Raisa trong việc dịch sách không. Kazansev phát lẹnh cho tôi.
Ngày hôm sau, tránh một cây áo lên, tôi đến nhà Benderski. Họ sống ơ khu vực Nevski và Môika, trong một căn nhà được lấy cảm hương từ đá cẩm thường Phần Lan, bề ngoài có những cột gõ đỏ hằng, nhẹ nhàng nhù lúa châu mai và nệm châu. Nhung người chủ nhà quyết toán, mới rẻo ra vui vẻ nhờ kiến thức doanh nhân vào những ngày trước cuộc chiến chiến đấu tươi thơ.
Tôi sẽ phiền những chiếc bông trong đoạn thảm đỏ bọc cầu thang.
Trong những khuôn mặt môi của chúng, tôi nhìn thấy những núp thủy tinh sáng bẫy rạng rỡ như sao.
Vợ chồng nhà Benderski sống tầng ba. Khi bật cửa, một quý bà để mũ bộ ngực được nhợn phỉ. Cô dẫn tôi vào phòng khách theo phong cách của dân Slavick. Trân tưởng treo cuộc sống cửa sổ, bày các tác phẩm áo dà làng xỉ ai bửng nữ̃a. Nhiếp ảnh treo liên tục treo là những bực tranh gam xanh của Reric, những tảng đá và các con vật tình dō̉ thời thợ tiền sử. SRNERS hăng goc nhã đeve của giạo, bửa lọa mọi noi, các bong đồn rõ la rõn của các hình thánh.
Cô nàng quyết toán đười đáng, mắt mẫn thi tiếng cổ kiều. Cô ta vàng tỏ ra lẫy turơng đảng ổng của mình. Cô đi lụp, cô không chươngchại hý vận vi vận cô vổng mố
– Mong mình bị môpatxang ỏn của đợi tơi, – rẩi rại nói vơi tôi.
Vơ dijội đò cu diễu ko fapơ sau chuyện côa đa thón nǎo, cô đe vến vo t bạ á là …
Tôi đệ nảo bản Sáo vò; …
Săt ră, cây mo di chuông tran lều xong, cô gíp hi lạnh căn đòng lại. Rera b. quanh lại khi nỏ…Các vựng nghiên của sẹo cắt vào nhau: hai cánh tay mịn màng, thon thả, vùng trán nhạt như sáp, viền dánh tén giữa hai lỗ âm vú bị ép xô lệch đi, từng đớp lên và lại hạ xuống.
– Bạn đã làm thế nào vậy?
Lúc đó tôi đã nói về phong cách, về đội quân từ ngữ, đội quân mà trong đó sử dụng đủ loại khí phục. Không có thứ sắt thép nào có sức làm tê buốt trái tim người ta bằng một dấu chấm câu đặt đúng chỗ. Chị ta lắng nghe, đầu cúi, đồi môi thoa son hồng mở. Một ánh đèn sáng lên trên mai tóc chải dầu bóng và để ngơi. Đôi bắp chân mang tất ôm khít, khoẻ và thon dài trên tấm thảm trải sàn.
Người hầu gái đưa cặp mắt đằng đẵng trơ tréo nhìn sang phía khác, bưng mâm đón bữa sáng lên.
Ánh nắng St Petersburg lấp lánh rơi xuống tấm thảm trải sàn mập mờ bột màu. Hai mươi chín tập sách của Moptaxon xếp chặt cái giá nhỏ phía trên bàn viết. Tia nắng lung linh nhảy nhót vuốt ve những gợi sách bọc da, nấm mộ tuyệt vời của một trái tim người.
Cà phê sáng đem lên cho chúng tôi đựng trong những chén màu xanh lơ, và chúng tôi bắt đầu dịch “Idillia” (“Khúc đồng dao”). Ai mà không nhớ truyện ngắn kể về anh chàng thợ mộc bụ bầu sữa đang căng tức của cô nương mẫu đầy đà. Chuyện ấy xảy ra trên một chuyến tàu chạy từ Nisov đến Maxay, vào một buổi trưa oi ả, ở xứ hoa hồng, quê hương của hoa hồng, nơi mà những cánh đồng trồng hoa tràn xuống tận mép biển…
Tôi ra khỏi nhà Benderski với hai mươi lăm rup tạm ứng trước. Hội của chúng tôi ở Peski tối ấy say ngất ngư chẳng khác gì đàn ngỗng nô căng nước. Chúng tôi đã dùng thìa múc món trứng cá tầm và nhắm nó với món giò lòng. Khi đề chềnh choáng, tôi quay ra bỉ nháo Tonstoi:
– Cụ hãi rồi, cái cụ bá tước của các anh ấy, cụ nhắt cây… Tôn giáo của cụ là sợ hãi… Hãi đói, hãi già, thế nên ngài bá tước bèn may cho mình một cái áo bằng đức tin…
– Rồi sao nữa? Lắc lắc cái đầu chim, Kazansev hỏi tôi.
Chúng tôi lặm luôn bên chân giường. Tôi mơ thấy Katia, chị thợ giặt đã bốn chục tuổi, sống ở dưới nhà. Sáng sáng chúng tôi thường xuống chỗ chị ta xin nước sôi. Ngay đến mặt chị ta tôi còn chưa kịp nhìn cho kỹ, ấy thế mà trong mơ có trời biết tôi và Katia đã làm những trò gì. Chúng tôi đã quấn nhau hôn hít đến mê hồn. Sáng hôm sau, không cầm lòng được, tôi đã ghé xuống chỗ chị ta xin nước sôi.
Đón tôi là một người đàn bà dáng ử ẹ, vai vắt khăn choàng, tóc xám màu tro rối tung và đôi tay sưng mộng vì đâm nước.
Kể từ hôm ấy, sáng nào tôi cũng ăn ở đằng nhà Benderski. Trong căn gác áp mái của bọn tôi có thêm được một cái bếp lò mới, cá trích hộp, sô-cô-la. Hai lần Raisa còn đưa tôi ra đảo chơi. Không đừng được, tôi đã kể cho chị ta nghe về thời thơ ấu của mình. Câu chuyện kể nghe thảm đạm đến chính tôi cũng phải ngạc nhiên. Từ dưới viền mũ bằng lông điêu thử, đôi mắt sợ hãi long lanh nhìn tôi. Hàng mi hung khê chớp đướm vẻ thương xót.
Tôi đã làm quen với chồng Raisa – một tay Do Thái mặt bụng, đầu hói truời và người dẻo lép, nghiêng cứ như chực dướn lên bay. Nghe đâu ông ta là chỗ thân cận với Rasputin. Những khoản lợi tức ông ta thu được nhờ chạy hàng quân nhu khiến ông ta có vẻ như một kẻ bị ma ám. Mắt ông ta lơ lào, với ông, tấm màn che thực tại đã rách nát rồi. Raisa thuong ngại ngùng khi phải giới thiệu với chồng những người quen mới của mình. Vì còn non nớt nen hàng haftuần sau tôi mới nhận ra điều đó.
Sau Tết, nhà Raisa có hai người em gái từ Kiev lên chơi. Đâu như tôi có mang tới tập bản thảo truyện “Lời thú nhận” và vì không gặp Raisa nen đến tôi tối mới trở lại. Mọi người đang dùng bữa trongTrong không gian phòng ăn, tiếng cười vui nhộn của phụ nữ và sự háo hức của đàn ông đang say sưa thổi vào không khí. Ở những gia đình giàu có, không gian ăn uống thường nhộn nhịp và náo nhiệt. Tiếng đồng hồ ồn ào mang dấu ấn rõ ràng của tín ngưỡng Do Thái, từ những đợt tiếng lớn đến những âm vang cuối cùng tạo nên một không khí đặc biệt. Và tôi đã được đón tiếp bởi một quý cô với chiếc váy lưng hở quyến rũ. Bước chân mềm mại, tôi dạo chơi thoải mái.
“Bạn biết rồi, tôi đã say rồi, ông bồ câu ạ”, và cô ấy trao cho tôi đôi tay đính đầy những chuỗi bạch kim và những ngôi sao hồng ngọc.
Vóc dáng cô ấy ngả nghiêng, cao cửng như con rắn xoắn theo nhịp nhạc. Cô ấy đầu lại nghiêng quấn, làm cho vòng khuyên lanh lẹ, rồi ngẫm nghĩ một cách phong trần đè bẹp lên chiếc ghế mang phong cách Nga cổ. Trên làn da nhẵn của cô ấy, những vết bầm tím tự nhiên hiện lên rõ ràng.
Phía sau tường, âm thanh của phụ nữ cười đùa vang lên. Hai cô em nhà Benderski đều có vẻ ngoại hình giống nhau, ngực phồng ra, mái tóc đen tung bay. Cả hai đều đã lấy chồng từ tộc Benderski của mình. Phòng không khí tràn ngập tiếng cười nữ giới, những trò đùa lanh lợi của những người phụ nữ đã trưởng thành. Hai ông chồng đan xen cho họ các chiếc áo hết sức sang trọng, phon ti, khăn chéo Ôdenbourg, giày da cao cổ; và lớp lông tuyết xuồng lên từ móc áo chỉ còn thấy một đôi má đỏ rực, mũi trắng như sứ và ánh mắt thâm trầm của dân Seemit. Đang chán, họ rời phòng ăn để đến nhà hát thưởng thức vở “Judith” với sự tham gia của Saliapin.
“Tôi muốn làm việc,” – Raisa nói thầm, vẫy vùng tay trần, “chúng ta đã phí mất cả tuần rồi…”
Cô sang phòng ăn, lấy một chai rượu và hai cốc lớn. Bộ ngực quyến rũ ẩn hiện qua lớp vải mềm mịn, và cô rót rượu với lời: “Loại nho quý, năm 83 đó, chồng tôi biết tôi chắc chắn sẽ bị giết nếu ông ấy nhận ra…”
Tôi không quan tâm đến loại nho năm 83 kia, và cũng không có ý định nốc rượu liên tục. Họ nhanh chóng dìu tôi ra những con hẻm u ám với ánh sáng cam và tiếng nhạc xa xa vọng lên.
“Tôi say rồi, ông bồ câu ạ… Hôm nay chúng ta sẽ làm gì đây?”
…
Hãy sẵn sàng đắm chìm trong những trang sách đầy kỳ vị của tác giả Isaac Babel & A. G. Daniil.