Cuốn sách “Gọi em bằng tên anh” là một câu chuyện tình yêu đầy bất ngờ và mạnh mẽ giữa hai nhân vật chính là Elio, một thiếu niên 17 tuổi, và Oliver, một học giả Mỹ. Câu chuyện diễn ra trong bối cảnh của vùng duyên hải Riviera ở nước Ý vào những năm 1980.
Trong những tuần hè sôi động tại căn biệt thự của gia đình Elio, dòng chảy cuồn cuộn của tình yêu và đam mê được kìm nén, tạo nên một cuộc tình mãnh liệt giữa hai chàng trai trẻ. Cuốn tiểu thuyết này của André Aciman là một bản biên ca chân thành và cảm động dành cho tình yêu con người, đưa người đọc vào một hành trình đầy xúc cảm và sâu sắc.
Với cách viết tinh tế và mô tả chi tiết, cuốn sách không chỉ là một câu chuyện tình yêu đẹp mà còn là một tác phẩm văn học sâu sắc, đầy ý nghĩa. Đó là một cuốn sách không thể nào quên, để lại trong lòng độc giả những dư âm và cảm xúc mãnh liệt.
Mời các bạn đón đọc Gọi Em Bằng Tên Anh – Call Me By Your Name của tác giả André Aciman.
—
Phần 1 – Nếu không phải bây giờ, thì khi nào?
“Gặp sau!” Hai chữ đó, giọng nói đó, thái độ đó.
Trước giờ, tôi chưa từng nghe ai dùng hai chữ “gặp sau” để tạm biệt. Nó có vẻ khắc nghiệt, cụt lủn, xua đuổi, thốt lên với sự bất cần ẩn giấu của những người không quan tâm là sẽ gặp lại hoặc nghe tin về ta nữa hay không.
Đó là điều đầu tiên tôi nhớ về anh, và đến tận hôm nay tôi vẫn còn nghe câu đó.
Gặp sau!
Tôi nhắm mắt, nói câu đó, và trở lại nước Ý vào nhiều năm trước, bước dọc con lộ rợp bóng cây, nhìn anh xuống xe taxi, áo sơ-mi xanh dương thùng thình, cổ áo rộng phanh ra, kính râm, mũ rơm, chỗ nào cũng thấy da. Đột nhiên anh bắt tay tôi, dúi vào tôi cái ba-lô, lấy va-li ra khỏi cốp xe, hỏi bố tôi có nhà không.
Có thể chuyện đã bắt đầu ở ngay nơi đó, ngay lúc đó: cái áo, tay áo xắn lên, đôi gót chân tròn của anh thụt ra thụt vào đôi giày vải bạt đã sờn, háo hức muốn thử đi vào lối sỏi dẫn tới ngôi nhà của chúng tôi, vừa bước đi đã vội hỏi, Đường nào ra bãi biển?
Một anh khách trọ hè. Lại thêm một nỗi chán.
Rồi gần như không nghĩ ngợi gì, lưng anh đã quay sang chiếc xe, anh vẫy bàn tay đang rảnh và thốt một câu vô tư Gặp sau! với người hành khách khác trong chiếc xe, rất có thể người này đã chia tiền cuốc xe từ ga tới. Không thêm tên tiếc hay lời đùa bỡn gì để làm dịu đi cái sự chia ly xáo động, không gì cả. Hai chữ tống tiễn của anh nhanh nhảu, bạo dạn, và cụt lủn – ta có nói gì đáp lại anh cũng chẳng cần.
Bạn thấy đó, tôi nghĩ đây sẽ là cách anh tạm biệt chúng tôi khi tới lúc. Sẽ là hai chữ Gặp sau! ẩu tả, cộc cằn.
Từ giờ tới đó là sáu tuần lễ, chúng tôi sẽ phải chịu đựng anh ta.
Tôi thật là khiếp sợ. Loại sợ không cắt nghĩa được.
Dẫu vậy, tôi có thể học cách thích anh ta. Từ cái cằm tròn trịa cho tới cái gót cũng tròn trịa. Rồi sau vài ngày, tôi sẽ học cách ghét anh ta.
Đây, chính con người có bức ảnh trên tờ đơn đăng ký vài tháng trước đã hiện ra cùng bao nhiêu hứa hẹn cho những mối thân tình chớp nhoáng.
Nhận khách trọ hè là cách bố mẹ tôi giúp các giảng viên đại học trẻ chỉnh sửa bản thảo trước khi xuất bản. Cứ sáu tuần mỗi mùa hè, tôi phải dọn trống phòng ngủ của mình, chuyển xuống căn phòng kế dọc hành lang, căn phòng này nhỏ hơn, xưa là của ông tôi. Trong những tháng mùa đông, khi chúng tôi ở thành phố, nó trở thành căn phòng kho tạm, phòng trữ đồ, cũng như phòng áp mái, nơi có tin đồn là người ông có cùng tên với tôi vẫn nghiến răng trong giấc ngủ vĩnh hằng. Khách trọ hè chẳng phải trả tiền bạc gì, được hưởng mọi thứ trong nhà, và về cơ bản thì được làm bất cứ gì họ ưng, miễn là họ dành chừng một giờ mỗi ngày để giúp ba tôi viết thư từ, và giấy tờ nhiều loại. Họ trở thành người nhà, và sau mười lăm năm như vậy, chúng tôi đã quen với từng cơn mưa bưu thiếp và quà cáp không chỉ vào mùa Giáng sinh mà trải dài suốt năm từ những con người giờ đây hết lòng tận tụy với gia đình tôi, và sẵn sàng đi chệch khỏi lộ trình châu Âu của họ để cùng gia đình mình tạt qua B. một hai ngày, và hồi tưởng về nơi ăn chốn ở xưa.
Lúc dùng bữa thường có hai hoặc ba vị khách khác, có khi là láng giềng hoặc họ hàng, có khi là đồng nghiệp, luật sư, bác sĩ, những kẻ giàu có và nổi danh ghé tới thăm ba tôi khi trên đường tới nhà nghỉ hè của riêng họ. Thậm chí đôi lúc chúng tôi đón mời một cặp đôi khách du lịch vãng lai vào phòng ăn gia đình, những người này đã nghe nói về căn biệt thự cũ xưa, và đơn giản chỉ muốn ghé qua xem chơi, họ rất đỗi thích thú khi được mời dùng bữa cùng chúng tôi, kể chúng tôi nghe về họ, trong khi dì Mafalda dù được báo vào phút chót vẫn dọn ra những món thường lệ của dì. Ba tôi, một người kín đáo và rụt rè khi một mình, thích nhất là có vài chuyên gia danh giá đang nổi lên trong lĩnh vực nào đó giúp chuyện vãn bằng vài thứ tiếng, trong khi mặt trời hè nóng rẫy cùng một vài ly vang ngọt rosatello1 đẩy con người rơi vào trạng thái lờ đờ khó tránh khỏi. Chúng tôi gọi phần việc đó là chuyện nhàm sau bữa chiều – và qua một dạo, hầu hết các vị khách sáu tuần của chúng tôi cũng vậy.
Có lẽ chuyện bắt đầu không lâu sau khi anh tới, ngay giữa một trong những bữa ăn trưa thê thảm đó. Anh ngồi xuống cạnh tôi, và rốt cuộc tôi nhận ra rằng, dù làn da anh có hơi rám nắng sau ít ngày ở Sicily mùa hè đó, màu da lòng bàn tay anh cũng xanh xao, mỏng mảnh như làn da ở lòng bàn chân, hầu, dưới cánh tay – những chỗ này không bị phơi ra nắng nhiều, gần như màu hồng nhạt, lấp lánh và trơn láng như bụng thằn lằn. Kín đáo, trong sáng, non tơ, giống như màu ửng hồng trên gương mặt một vận động viên hoặc thoáng bình minh sau một đêm giông bão. Bấy nhiêu cho tôi biết nhiều điều về anh mà tôi sẽ chẳng biết hỏi thế nào.
Có lẽ chuyện bắt đầu trong những giờ bất tận sau buổi ăn trưa, lúc mọi người thơ thẩn trong những bộ đồ tắm cả bên trong và ngoài ngôi nhà, thân thể nằm ườn ra khắp nơi, giết thì giờ cho tới khi ai đó rốt cuộc đề nghị chúng tôi xuống chỗ rặng đá để bơi. Họ hàng, anh em họ, láng giềng, bạn, bạn của bạn, đồng nghiệp hoặc đơn giản là bất kỳ ai gõ cửa nhà chúng tôi rồi hỏi mượn sân quần vợt – ai ai cũng được chào mời vào thơ thẩn và bơi và ăn và được dùng cả căn nhà nghỉ, nếu họ ở lại đủ lâu.
Hay có lẽ chuyện bắt đầu trên bãi biển. Hoặc ở sân quần vợt. Hoặc trong lúc chúng tôi đi bộ cùng nhau lần đầu vào cái ngày đầu tiên, lúc tôi được nhờ dẫn anh đi xem nhà và chung quanh, và việc này dẫn tới việc kia, tôi đã đưa anh qua cánh cổng bằng sắt rèn cũ xưa đến tận bãi trống bát ngát ở khu đất heo hút gần với dọc đường ray xe lửa bỏ hoang từng nối B. với N. “Đâu đây có một nhà ga bỏ hoang à?” Anh hỏi, nhìn qua tán cây dưới ánh mặt trời bỏng rát, có thể là đang tìm chuyện để hỏi con trai chủ nhà. “Không, chưa từng có nhà ga nào cả. Con tàu đơn giản chỉ dừng lại thôi.” Anh tò mò về con tàu; vì đường ray có vẻ hẹp quá. Tôi giải thích rằng đó là con tàu hai toa có phù hiệu hoàng gia. Bây giờ đám du mục gypsy sống trong đó. Từ hồi mẹ tôi còn con gái tới đây nghỉ hè thì họ đã sống vậy rồi. Mấy người đó kéo các toa tàu vào sâu trong đất liền. Anh có muốn xem toa tàu không? “Có lẽ để sau.” Thái độ dửng dưng lịch sự, cứ như anh nhận thấy lòng sốt sắng sai chỗ của tôi nhằm làm vui lòng anh, và đẩy tôi ra xa một cách ngắn gọn.
Nhưng tôi lại đau.
Qua chuyện khác, anh bảo rằng anh muốn mở một tài khoản tại một trong những ngân hàng ở B., rồi tới gặp dịch giả tiếng Ý được nhà xuất bản ở Ý giao việc dịch cuốn sách của anh.
Tôi quyết định đưa anh tới đó bằng xe máy.
Đi xe thì chuyện trò cũng chẳng hơn gì lúc đi bộ. Dọc đường, chúng tôi dừng lại uống nước. Quán cà phê2 tối thui, vắng ngắt. Chủ quán đang lau sàn bằng dung dịch hăng mùi amoniac. Chúng tôi vội vã bước ra ngoài. Một con chim sáo lẻ loi đậu trên một cây thông Địa Trung Hải hót vài tiếng, tiếng hót lập tức chìm lỉm giữa cơn xào xạc của bọn ve sầu.
Tôi nốc một hơi dài nước khoáng từ trong chai, chuyền sang anh, rồi lại uống nữa. Tôi đổ một ít vào lòng bàn tay, chà mặt, rồi đưa mấy ngón tay ướt chải tóc. Nước không đủ lạnh, không đủ hơi ga, để lại chút khan khát mơ hồ.
Ở đây thì người ta làm gì?
Chẳng gì cả. Chờ mùa hè hết thôi.
Vậy thì mùa đông người ta làm gì?
Tôi mỉm cười, nghĩ tới lời đáp mình sắp nói ra. Anh hiểu ý và bảo, “Đừng có nói là người ta chờ mùa hè lại tới?”
Tôi thích người ta đọc được ý nghĩ mình. Anh nhận ra cái gọi là chuyện nhàm sau bữa chiều sớm hơn những người trước đây.
“Thực ra, mùa đông thì nơi này rất u ám, tối tăm. Chúng tôi về hưởng Giáng sinh. Chứ không thì đây chỉ là thị trấn ma.”
“Mà dịp Giáng sinh ở đây, mọi người làm gì ngoại trừ nướng hạt dẻ và uống rượu nóng đánh trứng?”
Anh đang châm chọc. Tôi cười đáp lại như trước. Anh hiểu ý, không nói gì, cả hai cười vang.
Anh hỏi tôi làm gì. Tôi chơi quần vợt. Bơi. Ra ngoài buổi tối. Chạy bộ. Cải biên nhạc3. Đọc.
Anh nói là anh cũng chạy bộ. Chạy sớm lúc sáng. Ở đây thì chạy chỗ nào? Thì chạy dọc theo lối đi bộ. Nếu anh ta muốn thì tôi chỉ ngay.
Tôi vừa bắt đầu thích anh trở lại thì câu nọ đốp thẳng vào mặt tôi. “Có lẽ để sau.”
Tôi nói tới chuyện đọc sau cùng, bởi nghĩ rằng với thái độ ngoan cố, trơ trơ mà anh đã phô ra, việc đọc sẽ có vẻ cũng nằm chót danh sách của anh. Vài giờ sau, lúc tôi nhớ ra anh vừa viết xong một cuốn sách về Heraclitus và rất có thể “đọc” không phải là chuyện vô bổ trong đời anh, tôi nhận ra mình cần phải khôn khéo sửa lại lời nói, và cho anh biết rằng sở thích của tôi cũng rất giống anh. Tuy nhiên, chuyện làm tôi khó chịu không phải là việc sửa lại ý niệm về mình, mà là những nỗi nghi ngại không mời mà tới. Tôi rốt cuộc nhận ra rằng từ trước tới giờ, tôi đã cố gắng và thất bại trong chuyện khiến anh thích mình, mà hoàn toàn không nhận ra, thậm chí chẳng chịu công nhận.
Khi tôi mời – bởi mọi vị khách đều thích ý này – đưa anh tới San Giacomo rồi đi lên đỉnh tháp chuông chúng tôi đặt biệt danh là To-die-for, lẽ ra tôi nên biết mà đứng yên đó, chứ không quay lại. Tôi tưởng mình sẽ đưa anh đi vòng quanh đơn giản bằng cách đưa anh lên đó, rồi để anh ngắm nhìn thị trấn, nhìn biển, và nhìn vào vĩnh cửu. Nhưng ôi.
Để sau!
Nhưng chuyện có thể đã bắt đầu khá lâu sau đó mà tôi không hay biết gì cả. Bạn nhìn một người, nhưng bạn không thật sự thấy người đó, cứ như người đó nấp sau cánh gà. Hoặc là bạn thấy, nhưng chẳng nhận ra gì hết, chẳng “nắm bắt” được gì hết, và trước khi bạn nhận ra một sự hiện diện, hoặc thứ gì đó khiến bạn khó chịu, sáu tuần lễ mà bạn có đã trôi qua gần hết, và người đó hoặc đã đi rồi, hoặc sắp sửa rời xa, và bạn đơn giản là đang vật vã cố chấp nhận một điều gì đó, mà bạn không hề biết, điều đó đã được trù tính nhiều tuần ròng ngay trước mắt ta, có tất cả các triệu chứng của cái mà ta buộc phải gọi là Tôi muốn. Bạn sẽ hỏi rằng cớ gì tôi lại không biết? Tôi biết thế nào là khao khát khi tôi thấy được – vậy mà lần này, nó hoàn toàn vuột mất. Tôi cứ tìm kiếm nụ cười xảo quyệt thình lình làm mặt anh sáng bừng mỗi lần anh đọc được ý nghĩ của tôi, trong khi cái tôi thật sự muốn là da, chỉ da thôi.
Trong bữa tối thứ ba, tôi cảm nhận là anh đang nhìn mình chằm chằm trong khi tôi cắt nghĩa bản nhạc Bảy lời cuối của Chúa của Haydn mà tôi cải biên. Năm đó tôi mười bảy, người nhỏ tuổi nhất bên bàn ăn, và là người ít được kẻ khác lắng nghe nhất, tôi đã tập một thói quen là dồn càng nhiều thông tin vào càng ít chữ càng tốt. Tôi nói nhanh, điều này khiến người ta bị ấn tượng rằng tôi đã luôn kiệm lời, im như thóc. Sau khi giải thích xong, tôi nhận ra ánh mắt nhìn tôi tha thiết nhất đến từ bên trái. Nó làm tôi phấn khích và tự hào, rõ ràng là anh quan tâm – anh thích tôi. Vậy thì đâu có gì khó khăn như tôi tưởng. Nhưng rồi lúc nói xong, tôi quay sang đối mặt, nhìn vào mắt anh thì lại gặp cái nhìn chằm chằm lạnh lùng, buốt giá – cái ánh mắt ngay lập tức thành ra hằn học và trơ trơ gần như là ác độc.
Tôi hoàn toàn mất hứng. Tôi đã làm gì nên nỗi để bị như vậy? Tôi muốn anh lại tử tế với tôi, cười với tôi như vài ngày trước ở chỗ đường tàu hoang phế, hay khi tôi giải thích cũng trong buổi chiều đó rằng B.là thị trấn duy nhất ở Ý nơi corriera, tuyến xe buýt nội vùng có Chúa phù hộ, chạy suốt mà không bao giờ dừng lại. Lập tức anh bật cười và nhận ra lời ám chỉ mập mờ tới cuốn sách của Carlo Levi. Tôi thích cách tâm trí chúng tôi dường như song hành với nhau, cách chúng tôi lập tức suy ra được từ ngữ mà người kia chực nói, nhưng rốt cuộc lại giữ lại.
Anh sẽ là một người hàng xóm khó chịu đây. Tôi nghĩ, tốt hơn cả là hãy tránh xa anh ra. Nghĩ rằng tôi đã suýt phải lòng vì làn da trên bàn tay, trên ngực, bàn chân anh chưa từng chạm vào một mặt phẳng thô ráp nào từ xưa đến giờ – và cặp mắt anh, khi ánh mắt kia, cái ánh mắt dịu dàng nhìn vào bạn nhiệm màu như sự Phục sinh vậy. Bạn sẽ chẳng thể nào nhìn lại đủ lâu, nhưng cần phải nhìn lại để tìm cho ra tại sao bạn lại không thể.
Tôi hẳn đã trao cho anh cái liếc mắt nguy hại tương tự.
Hai ngày ròng, chúng tôi bỗng nhiên chẳng chuyện vãn gì với nhau.
Trên bao lơn dài chung của cả hai phòng ngủ chúng tôi diễn ra sự tránh né cùng tận: câu chào, thời tiết tốt nhỉ, những lời tán gẫu hời hợt.
Rồi không một lời giải thích, mọi việc trở lại như trước.
Tôi có muốn đi chạy bộ sáng nay không? Không, không hẳn. À, vậy thì đi bơi.
Ngày hôm nay, cơn đau, chuyện đốt lò, nỗi háo hức vì có người mới, niềm hạnh phúc cứ chấp chới cách ta chỉ một đầu ngón tay, chuyện dò xét ý tứ những người tôi có thể hiểu nhầm, và không muốn mất và phải dọ ý mọi nơi mọi lúc, cái sự khôn vặt tuyệt vọng mà tôi trao cho mỗi một người tôi muốn và khao khát được đáp lại, những bức màn tôi dựng lên như thể giữa tôi và thế giới không chỉ có một mà là nhiều lớp cửa trượt bằng giấy thông thảo4, sự thúc giục mã hóa rồi lại giải mã điều chưa bao giờ được mã hóa ngay từ đầu – tất cả những điều này bắt đầu vào mùa hè Oliver tới ở nhà chúng tôi. Những việc ấy in dấu lên mỗi bài hát thịnh hành mùa hè đó, mỗi cuốn tiểu thuyết tôi đọc trong và sau những ngày anh ở, trên bất cứ gì từ mùi rau hương thảo những ngày nóng nực cho tới tiếng xào xạc điên cuồng của bọn ve sầu vào buổi chiều – những thanh âm và vị hương tôi lớn lên cùng và biết đến mỗi năm trong đời cho tới khi chuyện đó thình lình chộp lấy tôi, và đạt tới một sự chuyển điệu mãi thắm sắc màu những sự kiện mùa hè đó.
Hoặc có lẽ chuyện bắt đầu sau tuần đầu tiên anh ở, lúc tôi háo hức muốn xem anh còn nhớ tôi là ai không, khi thấy anh không làm lơ, và nhờ vậy, tôi có thể cho mình cái quyền xa xỉ là đi ngang qua anh trên lối ra vườn và không phải làm bộ rằng mình không biết có anh. Chúng tôi cùng chạy bộ sớm vào buổi sáng đầu tiên, xa tới tận B. rồi trở lại. Sáng sớm hôm sau chúng tôi bơi. Rồi ngày kế thì chúng tôi lại chạy bộ. Tôi thích chạy đua cạnh cái xe tải giao sữa khi nó còn lâu mới xong việc, hoặc gần tiệm tạp hóa và bánh nướng người ta hãy còn chuẩn bị mở hàng, thích chạy dọc bờ biển và lối đi riêng khi xung quanh còn chưa có mống người nào và ngôi nhà của chúng tôi trông như một ảo ảnh xa tít. Tôi thích những khi chân chúng tôi cùng nhịp, trái với trái, và chạm vào đất ở cùng thời điểm, để lại những dấu chân trên bờ biển mà tôi ước ao quay lại, và, trong bí mật, ướm chân mình vào chỗ anh đã để lại dấu vết.
Sự xen kẽ chạy bộ và bơi này đơn giản là “lịch” của anh hồi ở cao học. Anh có chạy ở đường Sabbath5 không? Tôi đùa. Anh luôn tập thể dục, ngay cả khi anh bệnh; có phải nằm trên giường thì cũng tập. Anh nói, ngay cả khi đêm anh ngủ cùng với ai mới, sáng sớm hôm sau anh vẫn ra ngoài mà tập. Lần duy nhất anh không tập là khi người ta phẫu thuật cho anh. Khi tôi hỏi phẫu thuật gì, câu trả lời mà tôi đã tự hứa với lòng là không bao giờ xui anh thốt ra, nó tới với tôi như cú bật của hình nộm lò xo trong hộp, trên mặt nó là nụ cười ngớ ngẩn. “Để sau.”
Có lẽ anh bị hụt hơi và không muốn nói quá nhiều, hoặc đơn giản là muốn tập trung bơi hoặc chạy. Hoặc có lẽ đó là cách anh khích lệ tôi tập trung như anh – hoàn toàn vô hại.
Nhưng có gì đó ngay lập tức trở nên lạnh lẽo và khó chịu trong cái khoảng cách len vào giữa chúng tôi tại những khoảnh khắc không ngờ nhất. Cứ gần như là anh làm vậy có chủ ý; cho tôi một chút, rồi một chút nữa, sau đó giật phắt đi bất kỳ dấu hiệu nào của tình bạn.
Ánh mắt sắt đá đó luôn trở lại. Một ngày nọ, trong khi tôi đang tập guitar ở cái chỗ đã trở thành “bàn của tôi” ở sân sau cạnh hồ bơi và anh đang nằm trên cỏ gần đó, tôi nhận ra ánh mắt kia ngay. Anh nhìn tôi chằm chằm trong khi tôi tập trung nhìn cần đàn, và rồi tôi đột nhiên ngẩng mặt lên để xem anh có thích đoạn tôi đang chơi, thì nó kìa: sắc lẻm, tàn độc, như một lưỡi dao lóe sáng lập tức rụt lại ngay khoảnh khắc nạn nhân bắt gặp nó. Anh cười nhạt với tôi như ý nói,
Giấu làm gì nữa.
Tránh xa anh ta ra.
Hẳn anh đã nhận thấy tôi run, và để cố đền lại cho tôi, anh bắt đầu hỏi nhiều điều về guitar. Tôi quá cảnh giác, nên đáp lại chẳng vô tư gì mấy. Trong khi đó, nghe tôi khó nhọc trả lời, anh nghi ngờ rằng có lẽ tôi diễn đạt thiếu đi nhiều thứ. “Thôi khỏi giải thích chi. Cứ chơi lại lần nữa đi.” Nhưng tôi tưởng anh ghét nó. Ghét nó? Sao cậu lại nghĩ vậy? Chúng tôi cãi qua cãi lại. “Cứ chơi đi, được không?” “Bản đó luôn hả?” “Bản đó luôn.”
Tôi đứng dậy, bước vào phòng khách, để cửa sổ mái mở cho anh nghe tôi chơi bài đó trên đàn piano. Anh theo tôi đến giữa quãng và, tựa vào khung gỗ cửa sổ, nghe một lát.
“Cậu đổi rồi. Không phải bản đó. Cậu đã làm gì vậy?”
“Tôi chỉ đánh theo cách Liszt sẽ chơi nếu ông ta cải biên nó.”
“Đánh lại lần nữa đi mà!”
Tôi thích cách anh giả vờ bực tức. Nên tôi bắt đầu đánh bản đó lần nữa.
Sau một lúc: “Tôi không tin nổi, cậu lại đổi nữa rồi.”
“À thì đâu có bao nhiêu. Đây là cách Busoni chơi, nếu ông ta cải bản của Liszt.”
“Cậu không chơi nhạc Bach theo đúng như Bach đã soạn được hay sao?”
“Nhưng Bach chưa từng soạn cho đàn guitar. Có thể ông cũng chưa từng viết nó cho đàn harpsichord. Thực ra thì ta còn không chắc đó là của Bach soạn.”
“Thôi coi như chưa hỏi.”
“Được rồi, được rồi, không cần phải bực vậy chứ,” tôi nói. Đến lượt tôi giả vờ thuận lòng. “Đây là Bach do tôi cải biên mà không có Busoni và Liszt. Bản này của một Bach rất trẻ, được dành riêng cho anh trai của ông.”
Tôi biết chính xác đoản khúc nào trong bản nhạc rõ ràng là đã khiến anh chú ý ở lần đầu, và mỗi lần tôi đàn, tôi như đang gửi cho anh một món quà nhỏ, bởi vì nó thực sự là dành riêng cho anh, như một biểu tượng cho điều gì đó rất đẹp đẽ trong tôi mà không cần phải thiên tài mới nhận ra, và điều đó thôi thúc tôi thêm vào một đoạn độc tấu nữa. Chỉ dành cho anh.
Chúng tôi – và hẳn anh đã nhận ra tín hiệu khá lâu trước tôi – đang tán tỉnh nhau.
Lát sau trong buổi tối đó, tôi ghi vào nhật ký của mình:
Lúc tôi nói rằng tôi tưởng anh ghét bản nhạc, tôi đã phóng đại. Điều tôi muốn nói là: Tôi tưởng anh ghét tôi. Tôi đã hi vọng anh sẽ thuyết phục tôi tin điều ngược lại – và anh đã làm vậy, một lát. Cớ gì sáng hôm sau tôi lại không tin?
Con người anh là vậy, tôi tự nhủ sau khi thấy anh bật từ lạnh lùng sang tươi vui.
Có lẽ tôi cũng đã hỏi: Tôi có bật tới bật lui đúng như vậy không?
T. B. Chúng ta không được soạn ra dành cho một nhạc cụ đơn tấu; tôi không phải, và anh cũng không.
Tôi đã rất muốn gán cho anh cái nhãn người khó chịu và khó gần, và tôi chẳng liên quan gì với anh nữa. Chỉ cần anh nói hai chữ thôi, tôi từ bĩu môi hờ hững chuyển sang tôi sẽ đàn bất cứ bản nào cho anh cho tới khi anh bảo tôi dừng lại, cho tới giờ ăn trưa, cho tới khi da trên ngón tay tôi tróc ra từng lớp một, bởi vì tôi thích làm điều này điều nọ cho anh, sẽ làm bất kỳ điều gì cho anh, chỉ cần anh nói ra, tôi thích anh từ ngày đầu, và ngay cả khi anh hồi đáp lạnh lùng lời mời mọc bè bạn từ tôi, tôi sẽ không bao giờ quên rằng cuộc nói chuyện này giữa hai ta đã diễn ra, và có những cách dễ dàng để ta mang mùa hè trở lại giữa cơn bão tuyết.
Trong lời hứa ấy tôi đã quên đánh dấu một điều là sự lạnh lùng và hờ hững có thể lập tức hủy bỏ mọi hòa hoãn cùng cam kết đã ký trong những thời khắc tươi vui hơn.
Rồi một chiều chủ nhật tháng Bảy, lúc ngôi nhà bỗng nhiên trống hoác, và chỉ có chúng tôi ở đó, và bụng tôi như có lửa – bởi vì “lửa” là từ đầu tiên và dễ nhất đến với tôi trong buổi tối đó, lúc tôi cố cắt nghĩa nó trong nhật ký. Tôi đã chờ, chờ mãi trong phòng mình, dính chặt trên giường trong một trạng thái hoang tưởng gồm nỗi kinh hoàng và mong đợi. Không phải là ngọn lửa đam mê, không phải là ngọn lửa tàn phá, mà là thứ gì đó gây tê liệt, giống như lửa từ những quả bom chùm hút dưỡng khí xung quanh, rồi để lại ta hổn hển vì như vừa bị đá vào bụng và một khoảng ngạt đã xé mọi mô phổi sống và làm khô miệng ta, và ta mong không ai cất tiếng, bởi tim ta bị nghẽn và đập nhanh tới nỗi nó sẽ bắn ra những mảnh gương sớm hơn bất kỳ thứ gì khác chảy qua các thất hẹp của nó. Lửa như nỗi sợ, nỗi hoảng loạn, biết đâu chỉ một phút thế này nữa thôi, tôi sẽ chết nếu anh không gõ cửa phòng mình, nhưng tôi sẽ chết còn sớm hơn nếu anh chẳng bao giờ gõ, hơn là gõ bây giờ. Tôi đã học cách để cửa sổ mái mở hờ, và tôi sẽ nằm trên giường, mặc mỗi áo choàng tắm, cả thân người tôi như rực lửa. Lửa như một lời cầu xin rằng, Làm ơn, làm ơn nói với tôi rằng tôi sai, nói với tôi rằng tôi tưởng tượng ra mà thôi, bởi vì không thể nào anh cũng cảm thấy vậy, và nếu đúng là anh thấy vậy thì anh là con người độc địa nhất trên đời. Rồi rốt cuộc một buổi chiều anh bước vào phòng tôi mà không gõ, như thể được những lời cầu nguyện của tôi vời đến, và hỏi tại sao tôi không ở bãi biển cùng những người khác, và tất cả những gì tôi có thể nghĩ để nói, dù tôi không thể khiến mình nói ra, Để được bên anh. Để được bên anh, Oliver. Mặc hay không mặc cái áo choàng tắm của tôi. Để được cùng anh trên giường tôi. Trên giường anh. Đó là giường của tôi trong những tháng khác của năm. Hãy làm những gì anh muốn với tôi. Hãy chiếm lấy tôi. Chỉ cần hỏi tôi có muốn không, và hãy hiểu câu trả lời anh sẽ nhận được, chỉ cần đừng để tôi nói không.
Và hãy nói với tôi rằng đêm đó không phải tôi mơ, lúc tôi nghe một tiếng động ngoài chiếu nghỉ gần cửa và đột nhiên biết rằng ai đó đang trong phòng mình, ai đó đang ngồi ở cuối giường mình, nghĩ, nghĩ, nghĩ, và rốt cuộc nhích về phía tôi và bấy giờ đang nằm, không phải bên cạnh, mà là bên trên tôi, trong khi tôi nằm sấp bụng, và tôi thích đến nỗi không muốn liều lĩnh làm bất cứ gì để cho thấy là mình đã bị đánh thức hoặc khiến anh đổi ý mà bước đi, nên tôi giả vờ mau ngủ, suy nghĩ, Đây không phải, không thể, không nên là một giấc mơ, bởi vì những từ ngữ đến với tôi trong khi tôi nhắm chặt mắt mình lại, là, Cảm giác này giống như được về nhà, được về nhà sau bao nhiêu năm tha hương giữa bọn Trojan và Lestrygonian, như được về nhà nơi mọi người đều như anh, nơi người ta biết, họ biết mà – như được về nhà bởi khi mọi thứ bừng sáng tỏ và đột nhiên ta nhận ra rằng suốt mười bảy năm ròng tất cả những gì bạn làm là nghịch vớ vẩn với mối liên kết sai lầm. Đó là lúc tôi quyết định truyền đạt mà không hề nhúc nhích hay động cựa một cơ nào trên người, rằng tôi sẽ đầu hàng nếu anh ép, rằng tôi đã đầu hàng sẵn rồi, đã là của anh, tất cả của anh, có điều đột nhiên anh biến mất và dù điều đó quá thật chứ không như mơ, vậy mà tôi bị thuyết phục rằng tất cả những gì tôi muốn kể từ ngày đó trở đi là anh làm đúng điều mà anh đã làm trong giấc ngủ của tôi.
Ngày hôm sau chúng tôi đang chơi đánh đôi, và trong khi giải lao, trong khi chúng tôi đang uống nước chanh dì Mafalda pha, anh quàng tay sang tôi rồi kẹp ngón cái và ngón trỏ vào vai tôi như bắt chước điệu bộ cái ôm mát-xa thân thiện – toàn bộ cử chỉ đó rất là thân thiện. Nhưng tôi như phải bùa, tôi giật người ra khỏi cái chạm của anh, bởi vì chỉ một thoáng nữa thôi tôi sẽ rã ra như món đồ chơi gỗ tí hon chỉ cần động vào dây nối là ụp xuống. Ngạc nhiên, anh xin lỗi và hỏi có phải anh ấn trúng “dây thần kinh hay gì đó không” – anh không có ý làm tôi đau. Nếu anh ngờ rằng anh làm tôi đau hoặc chạm tôi không đúng cách, hẳn anh đã cảm thấy rất là mất mặt. Tôi không hề muốn làm cho anh nản. Vậy mà tôi buột ra một câu, “Đâu có đau,” và sắp sửa bỏ qua chuyện đó. Nhưng tôi lại nghĩ, nếu phản ứng đó không phải tại đau thì giải thích thế nào cho chuyện mình rũ anh ra một cách cộc cằn như vậy trước mặt các bạn tôi? Nên tôi làm ra vẻ mặt một người đang rất cố, nhưng không giấu được cái nhăn mặt đau đớn.
Tôi chưa từng biết rằng cái làm tôi phát hoảng cực độ lúc anh chạm chính là cái khiến các cô gái trinh giật mình khi được chạm vào lần đầu bởi người mà họ muốn: anh ta đánh thức những dây thần kinh mà họ chưa từng biết là có tồn tại, và như vậy tạo ra những khoái lạc phiền phức hơn nhiều so với cảm giác họ tự chạm mình.
Anh vẫn có vẻ ngạc nhiên vì phản ứng của tôi, nhưng tỏ ý tin là vai tôi bị đau thật, trong khi tôi giấu giếm lý do. Đó là cách anh thả tôi ra khỏi tình thế khó xử, và cách anh giả vờ không hề biết tí gì về phản ứng của tôi. Về sau tôi biết rằng đó là khả năng sắc bén khi xử lý những tín hiệu mâu thuẫn, tôi không mảy may nghi ngờ rằng hẳn anh vốn đã nghi ngờ gì đó. “Nào, để tôi giúp cho.” Anh đang thử tôi và tiếp tục xoa vai tôi. “Thư giãn đi,” anh nói trước mặt mấy người kia. “Nhưng tôi đang thư giãn mà.” “Cậu cứng đờ như cái băng ghế này vậy. Cảm nhận đi,” anh nói với Marzia, một trong những cô gái gần chúng tôi nhất. “Căng quá mà.” Tôi cảm nhận bàn tay cô gái trên lưng mình. “Đây,” anh ra lệnh, ấn lòng bàn tay phẳng của cô vào lưng tôi. “Thấy không? Cậu ta nên thả lỏng hơn nữa,” anh nói. “Cậu nên thả lỏng hơn nữa,” cô lặp lại.
Có lẽ trong chuyện này cũng như mọi chuyện khác, vì tôi không biết nói mẹo, tôi chẳng biết nói năng làm sao cả. Tôi thấy mình như một người vừa câm vừa điếc, đến ngôn ngữ dấu hiệu cũng chẳng thể dùng. Tôi cứ lắp bắp đủ thứ để không phải nói thật ý mình. Đó là trình độ nói mẹo của tôi. Miễn là tôi có hơi để nói lại ý của người khác, thì may ra tôi thoát được. Không thì sự im lặng giữa chúng tôi rất có thể sẽ làm tôi bị lộ – cho nên ngay cả việc lắp bắp nói ra điều nhảm nhí nhất còn hay hơn sự im lặng. Im lặng sẽ làm lộ tôi. Nhưng cái chắc chắn làm lộ tôi nhiều hơn nữa là sự cố gắng vượt thoát của tôi trước mặt những kẻ khác.
Nỗi tuyệt vọng trong lòng hẳn đã khiến vẻ ngoài của tôi thành ra gần như bất nhẫn hoặc thịnh nộ không lời. Một ý nghĩ chưa từng lướt qua đầu tôi là anh có thể nhầm hai cảm giác đó là nhắm vào anh.
Có lẽ cũng vì những lý do tương tự, mỗi lần anh nhìn tôi thì tôi lại nhìn đi chỗ khác: để giấu đi cái nhút nhát bị căng tức của tôi. Thêm một ý nghĩ nữa chưa từng lướt qua đầu tôi là anh có thể thấy sự tránh né của tôi mang tính xúc phạm, và đáp trả bằng cái liếc mắt hằn học thoảng khi.
Cái tôi hi vọng anh đã không nhận ra trong phản ứng thái quá của tôi khi anh nắm lấy mình lại là thứ gì khác. Trước khi vùng khỏi cánh tay anh, tôi biết rằng mình đã đầu hàng bàn tay anh, và suýt nữa đã dựa vào như thể muốn nói – như tôi từng nghe người lớn hay nói, chuyện xảy ra khi có người xoa bóp vai ta lúc đi qua ta phía sau lưng – Đừng dừng lại. Anh có nhận ra tôi đâu đã chỉ sẵn lòng đầu hàng mà còn hòa quyện vào thân thể anh?
Cảm giác đó cũng được ghi vào nhật ký của tôi vào buổi đêm: tôi gọi nó là “loạn nhịp”. Tại sao tôi lại loạn nhịp? Mà nó đã dễ đến như vậy – chỉ cần anh chạm vào chỗ nào trên người tôi là tôi sẽ hoàn toàn rũn rời, mất hết ý chí vậy sao? Đây có phải là hiện tượng điếng hồn mà người ta nói không?
Mà tại sao tôi không chịu cho anh thấy mình đã điếng cả hồn? Bởi tôi sợ chuyện có thể xảy ra sau đó? Hay tôi sợ anh sẽ cười nhạo mình, kể với mọi người, hoặc coi như không bởi cái cớ là tôi còn quá trẻ nên chẳng biết mình đang làm gì? Hay lẽ nào anh có nghi ngờ – mà hễ ai cùng pha mới nghi ngờ như vậy – và có thể làm tới? Tôi có muốn anh làm vậy không? Hay tôi ưng chuyện sống cả đời trong khao khát, miễn là hai chúng tôi tiếp diễn trò chơi bóng bàn này: không biết, không phải không biết, không phải là không không biết? Cứ lặng thinh, không nói gì cả, và nếu bạn không thể nói “được,” thì cũng đừng nói “không được,” chỉ nói “để sau.” Có phải vậy nên người ta mới dùng chữ “có lẽ” trong khi bụng họ muốn nói “được,” nhưng lại mong bạn sẽ nghĩ đó là “không” trong khi thực ra họ muốn nói,
Làm ơn hỏi tôi thêm lần nữa, rồi một lần nữa đi mà?
Tôi nhớ lại mùa hè ấy, tôi đã luôn phải gắng gượng sống qua từng cơn “hừng hực” và “ngất ngư” đó, vậy mà cuộc đời vẫn ban cho tôi những khoảnh khắc tuyệt vời. Nước Ý. Mùa hè. Tiếng lũ ve sầu đầu giờ chiều. Phòng tôi. Phòng anh. Bao lơn của hai chúng tôi tách thế giới bên ngoài hẳn ra. Gió nhẹ phả qua vườn, len lên cầu thang, vào phòng tôi. Mùa hè đó tôi bắt đầu thích câu cá. Bởi vì anh thích. Thích chạy bộ. Bởi vì anh thích. Thích bạch tuộc, Heraclitus, Tristan. Mùa hè đó, tôi đã nghe tiếng chim, ngửi thấy mùi cây, hoặc cảm nhận làn hơi tỏa lên từ dưới đôi chân mình những ngày rực nắng, và bởi giác quan của tôi luôn thính nhạy nên tôi cũng tự động nhận thấy chúng tự động hướng tới anh.