Trong tác phẩm này, Gide đã thu hút sự chú ý bằng cách viết mở cửa, tiết lộ một cách không kìm kẹp những khao khát không ngay thẳng, những dục vọng nhỏ nhen… Hơn nữa, cùng với sự biến động mạnh mẽ trong tâm hồn, Gide khiến người đọc ngơ ngác trước những sự thật được đưa ra dưới góc nhìn không đạo đức.
Ai đẩy Thuý Kiều vào lầu xanh? Ai hướng Alissa vào khung cửa hẹp? Đó là định mệnh hay ngẫu nhiên? Xã hội, tôn giáo, hoặc ý chí tự do của con người, hoặc tâm hồn của một thiên tài sáng tác? Hay tất cả đều kết hợp với nhau?
Đề cập theo cách đơn giản: Nguyễn Du đã đẩy Kiều vào lầu xanh; Gide đã hướng Alissa vào khung cửa hẹp. Và mục đích là gì?
Khi Thuý Kiều ngã sấp vào không gian trần trụi, lầm bầm trong bụi bẩn, xiêm y quay cuồng, mất mọi quyền lực sống, Nhưng khi Nguyễn Du đưa ra lời khuyên đạo đức, tại sao vấn đề tư tưởng lại quay về xã hội Á Đông?
Vào khung cửa hẹp với tuyết phủ, Alissa nằm chết đông giữa cái trinh bạch lạnh lẽo, tiếng kêu than thảm của Alissa là dấu hiệu cho thấy xã hội Tây Phương đã sống vô ích qua hai ngàn năm. Điều này có nghĩa rằng kể từ khi những giọng nói truyền cảm hứng từ nguồn sống thiên thượng bị hiểu theo cách hẹp hòi đạo đức.
Ở mức tư duy khác, chúng ta cũng nghe thấy ngôn từ hư vô mờ nhạt. Gide và Nguyễn Du đều suy tư về sự hư vô đến cùng, và Gide còn đi xa hơn hơn những thiên tài như Nietzsche, nhìn thấy chân trời hư vô và vĩnh cửu, bắt gặp Lão Tử, Thích Ca, Parmenides, Homer như thần thơ Hy Lạp và người dân Việt Nam.
Trong lễ trao giải Nobel năm 1947, Gide được vinh danh vì sự trung thực và tinh tế trong các tác phẩm của mình, mặc dù bạn bè thường khuyên ông giảm bớt dung tục trong văn phong, không biến văn chương thành động cơ cho bản năng và tội ác. Gide đã phải đấu tranh suốt cuộc đời giữa “những gì tồn tại trong mình” và khung cửa hẹp luân lý dẫn đến cuộc sống trong sạch.
André Gide sinh vào ngày 22/11/1869 tại Paris, trong một gia đình Tin lành. Mặc dù cha ông, một giáo sư luật, qua đời khi Gide mới 11 tuổi, nhưng từ nhỏ, Gide đã bộc lộ bản ngang ngạnh và thói hư tật xấu. Điều này đã đưa ông tìm đến con đường khám phá chân lí và chính mình, một hành trình ít người dám mạo hiểm.Tôi đã thay đổi màu sắc của tờ vải đen cũ của mình người tôi. Từ khi còn nhỏ, tôi luôn yếu đuối. Mẹ tôi và cô Ashburton luôn quan tâm, không muốn tôi quá làm việc, để không trở thành một người lười biếng, dù tôi lúc nào cũng muốn làm việc. Khi mùa hè đầu tiên bắt đầu, cả hai người phụ nữ đều nghĩ rằng tôi nên rời xa thủ đô, tôi đã thật sự rối bời; và vào giữa tháng sáu, gia đình tôi đã định cư tại Fongueusemare gần cảng Havre, nơi mà ông Bucolin sẽ đón chúng tôi mỗi năm, khi mùa hè bắt đầu.
Trong một khu vườn không rộng lớn, không quá đẹp, không có gì đặc biệt so với những khu vườn “bình thường” khác, căn nhà của cậu tôi, trắng tinh, hai tầng, có kiểu dáng giống như những ngôi nhà dân dã xưa. Các cửa sổ hướng về phía đông ở phía trước vườn, có một vài cửa sổ khác ở phía sau; hai bên là vách cao. Những cửa sổ được làm từ nhiều tấm kính nhỏ hình vuông, một vài tấm được thay mới, tươi sáng giữa những tấm cửa cũ, phai màu. Một số tấm kính xấu có vết bọt, khi nhìn qua, cây ngoài vườn uốn éo như thể nó đang nổi bướu trên lưng. Khu vườn hình chữ nhật, bao quanh bởi tường gạch. Một sân cỏ rộng với bóng cây, con đường được trải đá, tường vôi thấp hướng ra ngoài, tạo ra cảm giác như ở một ngôi làng nhỏ bao quanh khu vườn; và một con đường giữa các hàng cây dừa.
Khu vườn phía sau nhà lớn hơn. Con đường bao phủ hoa hoa bên những hàng cây trồng ở bên vách tường phía nam. Những cây nguyệt quế rậm rạp che phủ khỏi gió biển. Một con đường khác, ven tường phía bắc, bị che khuất bởi những cây lá rậm rạp. Người em họ của tôi gọi con đường đó là “lối u ám”. Vào lúc hoàng hôn, họ hiếm khi dám đi qua đó. Hai con đường đều dẫn tới khu vườn rau, vườn rau nối tiếp khu vườn, và một số bậc gạch thấp hơn… Phía sau bức tường cuối cùng của khu vườn rau – bức tường có một cánh cửa kín – là một khoảnh rừng nhỏ, hai con đường dẫn vào, mất tích rồi trong rừng. Từ bậc thềm phía tây, nhìn qua khu rừng thấp, thấy dãy nguyên cao và đồi trồng lúa ruộng. Ở chân trời, xa xa, thoắt ẩn hiện ngôi nhà thờ của một ngôi làng nhỏ. Những chiều tĩnh lành, chỉ có vài hàng khói xám nghiêng về trời.
Mỗi buổi tối hè, sau khi dùng bữa tối, chúng tôi đi chơi trong “vườn thấp”. Chúng tôi đi qua cánh cửa kín, đi đến một chiếc ghế đá bên con đường dẫn vào rừng. Ngồi ở đây, chúng tôi có thể nhìn thấy toàn bộ cảnh đẹp; cậu tôi, mẹ tôi, và cô Ashburton ngồi trên chiếc ghế đá, gần căn nhà gạch gần chiếc hầm đất vôi bỏ hoang từ lâu. Đồng cỏ nhỏ trước mắt lấp lánh trong ánh sương chiều. Bầu trời vàng óng trên ngọn núi xa xăm… Chúng tôi từ từ lạc vào khu vườn… Khi quay lại nhà, trong phòng khách, gặp lại mợ tôi; mợ tôi thường không bao giờ đi cùng chúng tôi chơi vườn… Chúng tôi lại ở trong phòng riêng, đọc sách dưới ánh đèn. Đến khuya, chỉ còn tiếng bước chân của mẹ, cậu, mợ, khu vực lên giường nghỉ ngơi trong căn phòng riêng biệt.
Hãy khám phá cuốn sách “Khung Cửa Hẹp” của tác giả André Gide.