Cuốn sách “” mở đầu với cuộc sống bình dị của cô gái Sophie Hatter, người sống và làm việc trong cửa hiệu bán mũ của bố mẹ tại Ingary. Sophie sống trong sự yên bình cho đến một ngày, khi một phù thủy tên là xứ Waste xuất hiện và biến cô thành một bà già xấu xí.
Quyết tâm giải cứu bản thân, Sophie quyết định đi tìm sự giúp đỡ của pháp sư Howl, người được đồn là thích “ăn tươi nuốt sống” trái tim của những cô gái trẻ. Trên đường đi, cô gặp và kết bạn với Calcifer, một linh hồn sống trong lò sưởi di động của Howl. Mời các bạn đón đọc Lâu Đài Bay cùa Pháp sư Howl của tác giả Diana Wynne Jones.
—-
CHƯƠNG I: Sophie nói chuyện với những chiếc mũ
Ở xứ sở Ingary, nơi những thứ như hài bảy lý và áo tàng hình thật sự tồn tại thì thật bất hạnh nếu bạn được sinh ra làm chị cả trong ba chị em. Ai cũng biết bạn sẽ là người đầu tiên nếm mùi thất bại và tệ nhất là khi cả ba chị em bạn bắt đầu đi tìm vận may.
Sophie Hatter là chị cả trong ba chị em gái. Thậm chí cô cũng không được là con gái một ông thợ mộc nghèo, nếu vậy thì cũng còn có vài cơ hội để cô thành công. Cha mẹ làm ăn khấm khá và là chủ một cửa hiệu bán mũ dành cho các quý bà trong thị trấn Chợ Chipping giàu có. Thực ra mẹ đẻ của Sophie qua đời khi cô mới lên hai còn em Lettie mới được một tuổi, và cha cô đã cưới cô bán hàng trẻ nhất trong cửa hiệu, một cô gái tóc vàng xinh đẹp tên là Fanny. Chẳng bao lâu Fanny sinh Martha, cô em gái thứ ba. Chuyện này có thể khiến Sophie và Lettie thành hai cô chị Lọ Lem, nhưng thực tế cả là cả ba chị em lớn lên đều rất xinh đẹp, mặc dù mọi người vẫn thường nói Lettie đẹp nhất. Fanny đối xử tốt với cả ba chị em, và không hề ưu ái Martha hơn tí nào.
Ông Hatter rất tự hào về ba cô con gái và gửi họ vào học trường tốt nhất của thị trấn. Sophie học hành chăm chỉ nhất. Cô đọc rất nhiều sách và sớm hiểu ra cơ hội để cô có được một tương lai thú vị ít ỏi đến nhường nào. Điều đó làm cô thất vọng nhưng cô vẫn luôn hạnh phúc khi chăm sóc các em và chuẩn bị cho Martha tìm kiếm vận may khi thời điểm đến. Fanny luôn bận rộn với công việc ở cửa hiệu nên Sophie là người chăm sóc hai em. Hai đứa này rất hay la hét và kéo tóc nhau. Lettie thì không đời nào chịu chấp nhận là người thứ hai, sau Sophie, bị định sẵn sẽ có ít cơ hội thành công.
– Như thế là không công bằng! – Lettie hét lên – Tại sao Martha sẽ sướng nhất chỉ vì nó là em út? Em sẽ lấy một hoàng tử, vậy đấy!
Martha sẽ luôn luôn vặc lại là cuối cùng nó sẽ vô cùng giàu có mà chẳng phải lấy bất cứ ai.
Lúc đó Sophie sẽ phải lôi hai đứa ra và vá lại quần áo cho chúng. Cô rất khéo tay kim chỉ. Dần dần, cô còn may được quần áo cho các em. Vào Lễ hội Mùa Xuân trước khi câu chuyện này thực sự bắt đầu, cô đã may cho Lettie bộ cánh màu hồng thẫm mà Fanny bảo là trông cứ như được mua trong cửa hiệu đắt tiền nhất ở Kingsbury.
Vào khoảng thời gian này, mọi người lại bắt đầu nói đến mụ Phù thuỷ xứ Waste. Người ta nói rằng mụ đã đe doạ mạng sống con gái Đức Vua và rằng Đức Vua đã ra lệnh cho Pháp sư riêng của mình, Pháp sư Sulliman, đi tới xứ Waste để giải quyết mụ. Và có vẻ không những Pháp sư Sulliman không giải quyết được mụ: ông ta còn để chính mình bị mụ giết.
Mấy tháng sau đó, khi một toà lâu đài đen thui cao ngất đột nhiên xuất hiện trên những ngọn đồi phía trên Chợ Chipping, phả từng cuộn khói đen kịt từ bốn toà tháp canh cao chót vót, tất cả mọi người đều tin là chắc mụ Phù thuỷ đã lại rời khỏi xứ Waste và sắp làm điều tệ hại với đất nước họ như năm mươi năm trước. Mọi người vô cùng sợ hãi. Không ai dám đi đâu một mình, nhất là vào ban đêm. Điều khiến cho mọi chuyện đáng sợ hơn là toà lâu đài không ở nguyên một chỗ. Có lúc trông nó giống một vệt lửa hun cháy đen cao ngút trên cánh đồng hoang phía Tây Bắc, cũng có lúc nó lại nhô lên phía trên những tảng đá phía đông, và đôi khi nó còn chạy thẳng xuống chân đồi ngự giữa đám thạch nam ngay bên kia nông trại cuối cùng ở phía Bắc. Thỉnh thoảng bạn có thể thấy nó di chuyển thực sự, khói từ các tháp canh tuôn thành từng đụn xám xịt, bẩn thỉu. Suốt một thời gian dài mọi người đều nghĩ chẳng bao lâu nữa toà lâu đài đó sẽ đi thẳng xuống thung lũng, và quan Đốc lý đã nói đến chuyện cầu cứu Đức Vua.
Nhưng toà lâu dài chỉ di chuyển loang quanh trên đồi và hoá ra nó không phải là của mụ Phù thuỷ mà là của Pháp sư Howl. Pháp sư Howl là một kẻ khá xấu xa. Mặc dù lão có vẻ không muốn rời khỏi những qủa đồi, nhưng người ta đồn lão khoái bắt con gái trẻ và hút linh hồn họ.Cũng có người nói lão ăn tim họ. Lão là một pháp sư máu lạnh và nhẫn tâm tột cùng, không một cô gái nào được an toàn nếu bị lão tóm được khi đi một mình. Cũng như mọi cô gái khác ở Chợ Chipping, Sophie, Lettie, Martha được cảnh báo không bao giờ được phép ra ngoài một mình, điều đó khiến các cô thực sự khó chịu. Các cô rất thắc mắc không hiểu vì cớ gì Pháp sư Howl lại hút linh hồn của các cô gái trẻ.
Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau, ba chị em lại phải lo lắng chuyện khác, vì ông Hatter chết đột ngột ngay khi Sophie khôn lớn và có thể nghỉ học hẳn. Lúc đó mới thấy ông Hatter đã quá tự hào về ba cô con gái của mình. Khoản học phí ông vẫn phải trả đã khiến cửa hiệu sa vào nợ nần nặng nề. Tang lễ xong xuôi, Fanny ngồi trong phòng khách ở căn nhà kế bên cửa hiệu và phân tích tình hình. Bà nói :
– Mẹ e là tất cả các con sẽ phải thôi học ở trường. Mẹ đã tính toán trước sau cả rồi, và mẹ thấy cách duy nhất để duy trì cửa hiệu và chăm lo cho cả ba con là phải thu xếp để các con vào học ở một cơ sở dạy nghề có tương lai nào đó. Giữ cả ba con ở lại cửa hiệu thì không được thực tế cho lắm. Mẹ không kham nổi việc đó. Vậy mẹ đã quyết định. Trước hết là Lettie…
Lettie ngước lên, gương mặt rạng ngời vẻ khoẻ khoắn và xinh đẹp mà ngay cả nỗi buồn và bộ quần áo tang cũng không che giấu được.
– Con muốn tiếp tục đi học – cô nói.
– Vậy thì con yêu, con sẽ tiếp tục đi học. – Fanny nói – Mẹ đã thu xếp để con được học nghề ở chỗ Cesari, một thợ làm bánh ngọt ở Quảng trường Chợ. Họ nổi tiếng là đối xử với học viên như với vua chúa, và ở đó con sẽ vừa được vui vẻ vừa được học một nghề có ích. Bà Cesari là một khách hàng và là một người bạn tốt, và bà ấy đã ưu ái nhận con vào học.
Lettie cười to chứng tỏ cô không hề hài lòng chút nào:
– Ồ, cám ơn mẹ – cô nói – May mắn làm sao con cũng thích nấu nướng, đúng không nào?
Fanny có vẻ nhẹ nhõm. Đôi khi Lettie có thể là đứa bướng khủng khiếp.
– Bây giờ đến Martha – bà nói – Mẹ biết là con vẫn còn bé chưa đến tuổi đi làm, vì thế mẹ nghĩ mãi để tìm cho con một chỗ học nghề lâu dài và yên tĩnh, và sau này nó vẫn còn có ích dù con quyết định làm gì đi chăng nữa. Con biết bà Annabel Fairfax, bạn học cũ của mẹ chứ?
Martha, mảnh dẻ và trắng trẻo, ngước đôi mắt xám to nhìn xoáy vào Fanny, trông cũng bướng bỉnh chẳng kém gì Lettie.
– Mẹ muốn nói đến cái bà nói lắm ấy à? – cô nói. – Bà ấy chẳng phải là phù thuỷ ư?
– Ừ, bà ấy có một ngôi nhà rất đẹp và khách hàng của bà ấy thì ở khắp Thung lũng Folding – Fanny sôi nổi nói – Martha, bà ấy là một phụ nữ tốt. Bà ấy sẽ dạy con tất cả những gì bà ấy biết và rất có thể sẽ giới thiệu con với những người quan trọng ở Kingsbury. Một khi bà ấy đã chấp nhận con thì cuộc đời con sẽ được sắp đặt đâu vào đấy.
– Bà ấy là người đáng mến – Martha thừa nhận – Thôi được.
Ngồi lắng nghe, Sophie thấy Fanny đã tính toán mọi chuyện đúng như cần thiết. Là con gái thứ hai, Lettie dường như sẽ chẳng đi đến đâu xa lắm, vì thế bà đưa cô tới nơi có thể gặp một anh chàng học nghề đẹp trai nào đó và sau này sẽ sống hạnh phúc. Martha, con bé nhất định sẽ tranh đấu và tự tìm kiếm vận may cho mình thì sẽ được phép thuật và bạn bè giàu có giúp đỡ. Còn về bản thân cô, Sophie không hề thắc mắc điều gì đang chờ đợi mình. Cô không ngạc nhiên khi nghe Fanny nói:
– Nào, Sophie yêu quý, dường như việc con sẽ thừa hưởng cửa hiệu bán mũ khi mẹ nghỉ ngơi là hoàn toàn đúng đắn và công bằng vì con là con cả. Mẹ đã quyết định sẽ tự mình dạy nghề cho con, để con có cơ hội học buôn bán. Con thấy thế nào?
Sophie sao có thể nói rằng cô đành cam chịu nghề bán mũ. Cô cảm ơn Fanny đầy biết ơn.
– Vậy mọi chuyện đã sắp đặt xong – Fanny nói.
Ngày hôm sau, Sophie giúp Martha sắp xếp quần áo vào hòm, rồi sáng hôm sau nữa, mọi người tiễn Martha lên đường trên chiếc xe ngựa chở khách; trông cô nhỏ bé, căng thẳng và hồi hộp. Vì đường đến Folding Thượng, nơi bà Fairfax sống, chạy qua quả đồi nơi có toà lâu đài di động của Pháp sư Howl. Hoàn toàn hiểu được vì sao Martha sợ hãi.
– Em ấy sẽ ổn thôi – Lettie nói. Lettie không để ai giúp mình gói gém đồ đạc. Khi chiếc xe ngựa chở khách đi khuất, Lettie nhét tất cả đồ đạc của mình vào chiếc vali mềm rồi trả cho thằng bé đánh giày nhà bên cạnh sáu xu để thuê nó đẩy bằng xe cút kít tới hiệu bánh Casari ở Quảng trường Chợ.
Lettie đi sau chiếc xe cút kít, vẻ vui tươi hơn Shophie mong đợi. Thực ra, cô như đang giũ hết những bụi bặm của cái cửa hiệu bán mũ khỏi chân mình.
Thằng bé đánh giày mang về một mẩu thư nguệch ngoạc của Lettie, viết rằng cô đã xếp đồ đạc vào ký túc xá nữ và Cesari có vẻ rất thú vị. Một tuần sau, chiếc xe ngựa chở khách cũng mang thư của Martha về nói rằng Martha đã đến nơi an toàn và bà Fairfax “là một người rất đáng mến và bỏ mật ong vào mọi thứ. Bà ấy nuôi ong.” Đó là tất cả những gì Sophie biết về Lettie và Martha lúc này, vì ngay sau khi hai em rời khỏi nhà cô cũng bắt đầu học việc.
Dĩ nhiên Sophie đã biết rất rõ nghề buôn mũ. Hồi còn bé, cô vẫn thường chạy ra chạy vào kho đựng mũ bên kia sân, nơi những chiếc mũ được làm ẩm và đóng khuôn trên khuôn mũ, rồi hoa quả cùng những đồ trang trí khác làm từ sáp và lụa. Cô biết những người làm việc ở đây. Hầu hết họ làm việc ở đây từ hồi cha cô còn là một chú bé. Cô biết Bessie, cô bán hàng duy nhất còn lại của cửa hiệu. Cô biết những khách hàng mua mũ, biết người đàn ông thường đánh xe ngựa về nông thôn lấy mũ rơm đem về để người ta tạo hình lại trong nhà kho. Cô biết cả những nhà cung cấp khác và biết người ta sẽ sờ thử mũ mùa đông như thế nào. Quả thực Fanny không thể dạy thêm cho cô nhiều lắm, có lẽ chỉ trừ cách làm thế nào để khách hàng chịu mua mũ mà thôi.
– Con yêu, con phải dẫn khách hàng tới chỗ chiếc mũ hợp nhất – Fanny nói – Cho họ xem những cái mũ không hợp trước, sau đó chỉ cần đội cái mũ thích hợp lên là họ biết ngay khác nhau ở chỗ nào.
Thực tế Sophie chưa được bán mũ nhiều. Sau khoảng một ngày quan sát trong kho đựng mũ, và một ngày nữa Fanny đưa dạo quanh các cửa hiệu quần áo và cửa hiệu lụa, Fanny bảo cô ngồi trang trí mũ. Sophie ngồi trong hốc tường phía sau cửa hiệu, đính hoa hồng vào mũ có dây buộc dưới cằm, đính mạng vào mũ nhung, lót lụa bên trong và trang trí hoa bằng sáp cùng những dải nơ kiểu cách bên ngoài. Cô rất có khiếu trang trí mũ. Cô rất thích công việc này. Nhưng cô cảm thấy biệt lập và hơi chán. Mọi người trong xưởng đều luống tuổi nên không mấy vui nhộn, hơn nữa, họ đối xử với cô xa cách như với một người một ngày kia sẽ thừa kế cửa hiệu này. Bessie cũng đối xử với cô như vậy. Dẫu sao đi nữa câu chuyện duy nhất của Bessie là về anh chàng nông dân mà sau ngày lễ hội Mùa Xuân cô sẽ lấy làm chồng. Sophie khá ghen tị với Fanny vì bà có thể lăng xăng chạy đi mặc cả với ông bán lụa bất cứ khi nào bà thích.
Thú vị nhất là những câu chuyện của khách hàng. Không ai mua mũ mà lại không ngồi lê đôi mách. Sophie ngồi trong cái hốc tường của mình, khâu mũ và nghe chuyện quan Đốc lý không bao giờ ăn rau xanh, và lâu đài của Pháp sư Howl lại di chuyển quanh vách đá, cái lão đó thật là, thì thầm, thì thầm, thì thầm … Những giọng nói đó bao giờ cũng hạ xuống thật thấp mỗi khi nhắc đến Pháp sư Howl, nhưng Sophie tóm lại rằng tháng trước lão đã bắt một cô gái dưới thung lũng. “Yêu râu xanh!”- giọng nói thì thầm, rồi lại lên cao khi chuyển sang chuyện Jane Farrier quá ư vô duyên với cách chải tóc đó. Rằng cái cô đó thì không thể nào quyến rũ nổi đến cả Pháp sư Howl chứ đừng nói đến một người đàn ông đáng kính. Rồi sau đó là một tràng những lời thì thầm khiếp hãi về mụ Phù thuỷ xứ Waste. Sophie bắt đầu cảm thấy có lẽ lão Pháp sư Howl và mụ Phù thuỷ xứ Waste nên kết hợp với nhau.
– Có vẻ hai kẻ đó là một cặp trời sinh. Có ai đó nên làm mối đi thôi – cô nói với cái mũ mình đang trang trí trên tay.
Nhưng đến cuối tháng, những chuyện người ta kháo nhau trong cửa hiệu mũ đột nhiên lại toàn về Lettie. Có vẻ như ở Cesari, từ sáng đến tối, chật kín các quý ông, ai cũng mua hàng đống bánh ngọt và đòi được Lettie phục vụ. Cô đã nhận được mười lời cầu hôn, sắp xếp theo chất lượng thì từ con trai quan Đốc lý cho đến anh chàng quét phố, và cô đã từ chối hết thảy, nói rằng mình còn quá trẻ chưa thể quyết định được.
– Mình gọi đó là óc xét đoán của em ấy – Sophie nói với cái mũ buộc dây cô đang lót lụa.
Fanny rất vui trước tin tức đó.
– Mẹ biết em con sẽ ổn mà! – bà vui vẻ nói. Sophie chợt nhận ra rằng Fanny hài lòng vì Lettie không còn ở đây nữa.
– Lettie không giúp ích được gì cho cửa hàng – cô nói với chiếc mũ khi đang xếp nếp lớp lụa màu nấm – Em ấy sẽ khiến cả đến mày cũng có vẻ kiều diễm, cái đồ tồi tàn cũ rích này ạ. Các quý bà nhìn Lettie và cảm thấy tuyệt vọng.
Nhiều tuần trôi qua, Sophie càng ngày càng hay nói chuyện với những cái mũ. Cũng chẳng có mấy ai khác để cô trò chuyện. Cả ngày Fanny bận mặc cả, hoặc cố lùa khách hàng mua mũ, còn Bessie bận phục vụ khách hàng và kể cho mọi người kế hoạch đám cưới của mình. Sophie bắt đầu có thói quen mỗi khi hoàn thành một chiếc mũ sẽ đặt nó lên giá – trông chiếc mũ đặt trên giá như cái đầu không có thân người – rồi dừng tay nói với cái mũ thân thể đội nó cần phải trông ra sao. Cô hơi nịnh cái mũ một chút, vì người ta cũng nên nịnh khách hàng.
– Bạn có vẻ quyến rũ bí ẩn – cô nói với cái mũ được mạng với những nét lấp lánh khuất bên trong. Còn với chiếc mũ rộng, màu kem, có giắt hoa hồng dưới vành thì cô bảo – Bạn sẽ lấy được một người giàu có – Bạn tươi trẻ như một chiếc lá xuân – cô nói với chiếc mũ rơm màu lục có lớp lông quăn màu xanh lá cây. Cô bảo những chiếc mũ hồng có dây buộc rằng trông chúng duyên dáng quá, còn những chiếc mũ sang trọng được trang trí bằng nhung thì trông bạn thật dí dỏm. Cô nói với chiếc mũ xếp nếp hình nấm:
– Bạn có trái tim vàng, một người có địa vị rất cao sẽ nhìn ra điều đó và đem lòng yêu bạn.
Đó là vì cô thấy thương cái mũ này. Trông nó thật rối mắt và xấu xí.
Ngày hôm sau, Jane Farrier đến cửa hiệu và mua chiếc mũ đó. Sophie lén nhòm qua hốc tường, thầm nghĩ tóc cô ta trông hơi lạ, tựa như Jane đã quấn nó quanh một dãy que cời lửa. Dường như hơi tội nghiệp khi cô ta chọn chiếc mũ này. Nhưng lúc đó hình như mọi người xung quanh đều đang mua mũ. Có thể đó là nhờ tài bán hàng của Fanny, hoặc cũng có thể là vì mùa xuân đang đến, nhưng việc kinh doanh mũ có vẻ sôi động lên trông thấy. Fanny bắt đầu nói, vẻ như có lỗi:
– Mẹ nghĩ lẽ ra không nên vội vã bắt Martha và Lettie đi xa sớm thế. Cứ đà này, chúng ta vẫn có thể làm chủ được.
Khách hàng rất đông bởi tháng Tư đang trôi qua và Lễ hội Mùa Xuân đang đến gần, Sophie khoác thêm cái áo dài màu xám kín đáo và lên phụ giúp cửa hiệu. Nhu cầu mũ quá lớn khiến cô rất vất vả mới trang trí kịp yêu cầu của khách, và tối tối cô phải đem mũ sang căn nhà kế bên cửa hiệu ngồi khâu dưới ánh đèn đến khuya để có đủ mũ bán trong ngày hôm sau. Những chiếc mũ màu lục tươi như của bà vợ quan Đốc lý được đặt mua rất nhiều, cả mũ màu hồng buộc dây cũng vậy. Rồi, vào tuần lễ trước ngày Lễ hội Mùa Xuân, một người bước vào cửa hiệu và hỏi mua chiếc mũ xếp nếp hình nấm giống như chiếc mũ Jane Farrier đã đội khi bỏ trốn cùng bá tước Catterack.
Đêm hôm đó, Sophie vừa ngồi khâu vừa tự thú nhận rằng cuộc sống của mình thật tẻ nhạt. Thay vì nói chuyện với những chiếc mũ, mỗi khi khâu xong một chiếc cô lại đội thử lên đầu và soi gương. Đó là một sai lầm. Chiếc áo dài xám nhạt nhẽo không hợp với Sophie, nhất là khi mắt cô quầng đỏ vì khâu vá, và vì tóc cô màu đỏ rơm nên cả màu xanh lục và màu hồng đều không hợp. Ai đó đội chiếc mũ xếp nếp hình nấm sẽ làm chính mình trông thật ảm đạm. “Trông cứ như gái già vậy!” – Sophie nói. Không phải vì cô muốn bỏ trốn theo Bá tước Catterack như Jane Farrier, cũng không phải vì muốn được cả nửa thị trấn cầu hôn như Lettie. Nhưng cô muốn làm cái gì đó – cô cũng không rõ đó là cái gì – một cái gì đó thú vị hơn một chút so với việc chỉ đơn giản ngồi trang trí mũ. Cô nghĩ hôm sau sẽ sắp xếp thời gian để đi gặp và nói chuyện với Lettie.
Nhưng Sophie không đi được. Hoặc là vì không sắp xếp được thời gian, hoặc cô không đủ sức lực, hoặc như Quảng trường Chợ có vẻ như quá xa, hay cũng có thể vì nhớ ra đi một mình sẽ gặp nguy hiểm với lão Pháp sư Howl – dẫu sao đi nữa, dường như càng ngày cô càng thấy khó đi gặp em gái hơn. Điều đó thật kì quặc. Sophie vẫn tưởng mình cứng cỏi gần bằng Lettie. Bây giờ cô thấy rằng có những việc cô chỉ có thể làm khi không còn lí do gì để trốn tránh.
– Vô lý quá! – Sophie nói – Quảng trường Chợ chỉ cách đây hai dãy phố. Nếu mình chạy…- Và cô thề với lòng mình là sẽ đến Cesari khi cửa hiệu nghỉ Lễ hội Mùa Xuân.
Trong khi đó lại có tin đồn mới lan đến cửa hiệu mũ. Người ta đồn rằng Đức Vua cãi nhau với Hoàng thân Justin, em trai người và Hoàng thân đã bị lưu đày. Không ai biết rõ lí do cuộc cãi cọ, nhưng cách đây hai tháng Hoàng thân đã vi hành qua Chợ Chipping mà không ai biết. Đức Vua cử Bá tước Catterack đi tìm và ông này đã tình cờ gặp Jane Farrier thay vì tìm được Hoàng thân. Sophie lắng nghe họ kháo nhau và cảm thấy buồn. Dường như những chuyện thú vị vẫn xảy ra, nhưng bao giờ cũng là với ai khác. Tuy vậy, sẽ thật vui nếu được gặp lại Lettie.
Ngày hội Mùa Xuân đã đến. Từ sáng tinh mơ, không khí hội hè đã tràn ngập phố phường, Fanny ra phố từ sớm, nhưng Sophie vẫn còn hai chiếc mũ cần trang trí. Sophie vừa làm vừa hát. Rốt cuộc thì Lettie cũng đang phải làm việc. Vào những ngày lễ hội, Cesari mở cửa tới tận nửa đêm. “Mình sẽ mua bánh kem của họ” – Sophie quyết định. – “Phải mấy năm rồi mình chưa ăn bánh kem”. Cô nhìn đám người đông nghẹt đi ngang cửa sổ với đủ loại quần áo màu sắc sặc sỡ, người ta bán đồ lưu niệm, người ta đi cà kheo, và cô thấy lòng mình rạo rực.
Nhưng cuối cùng, khi quàng chiếc khăn san màu xám lên chiếc áo dài xám và đi ra phố, Sophie không còn rạo rực nữa. Cô cảm thấy choáng ngợp. Quá nhiều người lao qua cô, cười nói hò hét, quá ồn ào và nhộn nhịp. Sophie cảm thấy mấy tháng ngồi yên một chỗ với công việc khâu vá dường như đã biến cô thành một bà già, hoặc người gần như tàn phế. Cô quấn chặt chiếc khăn san quanh người và rón rén đi nép sát những ngôi nhà, cố tránh không bị những đôi giày thượng hạng của người ta giẫm lên hoặc bị một cái cùi chỏ bên trong ống tay áo lụa lượt thượt nào đó huých phải. Khi những tiếng đùng đùng đột nhiên vang lên từ đâu đó, Sophie tưởng như mình sắp ngất. Cô ngước lên và thấy toà lâu đài của Pháp sư Howl ngay trên sườn đồi bên trên thị trấn, gần đến nỗi dưòng như nó đang ngồi trên nóc các ống khói. Những ngọn lửa xanh phụt ra từ cả bốn tháp canh, cuộn thành những quả cầu lửa xanh lè nổ bùng trên trời cao, thật khiếp rợn. Có vẻ Lễ hội Mùa Xuân khiến Pháp sư Howl khó chịu. Hoặc cũng có thể lão thử tham dự theo kiểu riêng của mình. Sophie quá khiếp sợ nên không quan tâm. Lẽ ra cô đã quay về nhà, nhưng có điều lúc này cô đã đi được nửa đường đến Cesari. Vậy nên cô chạy.
– Cái gì khiến mình nghĩ mình muốn cuộc đời này thú vị hơn nhỉ? – Cô vừa chạy vừa tự hỏi. – Mình sẽ sợ chết khiếp mất. Đó là vì mình là chị cả trong ba chị em.
Khi đến Quảng trường Chợ, tình hình còn tệ hơn, nếu quả thực còn có thể tệ hơn được nữa. Hầu hết các nhà trọ đều ở trong Quảng trường này. Những đám đông thanh niên vênh váo đi tới đi lui, khoác những tấm áo choàng lụng thụng với tay áo dài lượt thượt, dận những đôi giày có khoá mà ngày thường chẳng bao giờ họ mơ được xỏ, họ hét to để gây sự chú ý và sán đến bắt chuyện với các cô gái. Các cô cặp kè từng đôi một, sẵn lòng chờ các chàng trai tán tỉnh. Chuyện đó hoàn toàn bình thường trong những ngày Lễ hội Mùa Xuân, nhưng Sophie cũng chết khiếp luôn cả chuyện đó. Và khi một chàng trai trẻ mặc bộ cánh màu xanh lơ và bạc kì quặc nhìn thấy Sophie và quyết định sấn tới làm quen với cô thì Sophie rúm mình vào sau cánh cửa một cửa hiệu để trốn.
Chàng trai ngạc nhiên nhìn cô:
– Không sao đâu, chuột xám bé bỏng ạ, – anh chàng cười to, vẻ thương hại. – Tôi chỉ muốn mời cô đi uống nước thôi. Đừng sợ quá như thế.
Vẻ thương hại khiến Sophie vô cùng xấu hổ. Anh ta cũng là một kẻ rất chưng diện, với gương mặt xương xương thạo đời – rất già so với tuổi ngoài hai mươi – và mái tóc vàng chải chuốt công phu. Ống tay áo của anh ta dài lê thê, hơn bất cứ ống tay áo nào khác trên quảng trường, gấu tay áo viền kiểu vỏ sò và dát bạc.
– Ồ, cám ơn ngài, xin ngài tha lỗi. – Sophie lắp bắp. – Tôi … tôi đang trên đường đi thăm em gái.
– Vậy chắc chắn cô phải đi thăm em gái thôi, – anh chàng chải chuốt cười to. – Tôi là ai mà dám ngăn không cho một quý cô xinh đẹp đi thăm em gái mình kia chứ? Trông cô có vẻ rất sợ hãi, tôi muốn xin phép đi cùng cô được không?
Anh ta thực sự có ý tốt, điều đó càng khiến Sophie xấu hổ hơn bao giờ hết:
– Không, cám ơn ngài, thôi ạ – cô thở hổn hển và bỏ chạy vượt qua anh ta. Anh ta còn xịt cả nước hoa nữa. Mùi hoa dạ lan hương đuổi theo khi cô chạy. Người phong nhã làm sao! – Sophie nghĩ khi len lỏi đi giữa những chiếc bàn nhỏ bên ngoài Cesari.
Những chiếc bàn chật cứng. Bên trong cũng chật cứng và ồn ào chẳng kém ngoài Quảng trường Chợ. Sophie nhìn thấy Lettie trong dãy các cô bán hàng đứng ở quầy vì một nhóm thanh niên rõ ràng là các cậu công tử con nhà điền chủ đang chống khuỷ tay lên quầy hét gọi cô. Lettie, xinh đẹp hơn bao giờ hết và có lẽ hơi gầy đi một chút, đang bỏ bánh vào túi thật nhanh, khéo léo xoắn từng túi và nhìn xuống khuỷ tay mình với một nụ cười và một câu trả lời dành cho mỗi cái túi vừa được xoắn lại. Rất nhiều tiếng cười. Sophie phải lách mãi mới tới được chỗ quầy hàng.
Lettie nhìn thấy chị. Cô có vẻ run trong thoáng chốc. Rồi mắt cô mở to, nụ cười cũng rộng mở, cô hét:
– Sophie!
– Chị có thể nói chuyện với em được không? – Sophie gào to. – Ở đâu đó. – cô hét lên, hơi bất lực khi một cái cùi chỏ to tướng trong tay áo rất diện đẩy bật cô ra khỏi quầy hàng.
– Chờ một tí! – Lettie gào lại. Cô quay sang cô gái bên cạnh và thì thầm. Cô gái nọ gật đầu, cười và tiến lại thay vào chỗ Lettie.
– Tôi sẽ phục vụ thay. Tiếp theo là ai ạ? – Cô gái nói với đám đông.
– Nhưng tôi muốn nói chuyện với cô cơ, Lettie! – một trong những cậu công tử hét.
– Nói với Carrie ấy – Lettie đáp lại. – Tôi muốn nói chuyện với chị tôi.
Dường như không ai buồn quan tâm. Họ đẩy Sophie tới tận tít cuối quầy hàng nơi Lettie đang lật cánh cửa đậy bàn quầy lên và vẫy tay ra hiệu, họ bảo cô chớ có giữ Lettie cả ngày. Khi Sophie chui được qua cánh cửa bàn quầy, Lettie nắm cổ tay cô và lôi cô ra phía sau cửa hiệu, tới một căn phòng xung quanh xếp đầy những giá gỗ, cái nào cũng chất đầy bánh ngọt. Lettie đẩy hai chiếc ghế đẩu tới.
– Chị ngồi xuống đi – Lettie nói. Cô nhìn cái giá gần nhất, vẻ hơi lơ đãng, và lấy một cái bánh kem đưa cho Sophie. – Có lẽ chị cần cái này.
Sophie ngồi phịch xuống ghế, hít mùi bánh thơm ngậy và cảm thấy rưng rưng nước mắt:
– Ồ, Lettie, gặp em chị mừng quá, cô nói.
– Vâng, và em cũng rất mừng vì chị đã ngồi xuống, – Lettie nói.- Chị thấy đấy, em không phải Lettie. Em là Martha.