Lều Chõng – Ngô Tất Tố
Lều chõng, một tác phẩm phóng sự của tác giả Ngô Tất Tố, đã ra mắt độc giả lần đầu vào ngày 10 tháng 3 năm 1939 tại Hà Nội.
Truyện đề cập đến thời kỳ xa xưa, khi thí sinh phải mang theo lều, chõng, và thức ăn, lẻn lội xa xôi đến kinh thành tham gia kỳ thi. Thầy khoá Đoàn Vân Hạc, đỗ Giải nguyên nhưng vì trẻ tuổi phải đợi khoa sau. Vân Hạc đỗ Hội nguyên, nhưng vì phạm húy trong kì thi Đình nên bị giam hai ngày và bị truất khoa cử.
Ngô Tất Tố viết tác phẩm này để phản ánh những điều đen tối trong các kỳ thi và thể hiện sự thất vọng to lớn của những nho sĩ khi lấy khoa cử là con đường tiến thân. Lều chõng được đăng trên báo Thời Vụ năm 1939 và sau đó xuất bản thành sách vào năm 1941.
Trải qua hơn một thế kỷ, “Khoa cử Hán học” và “Lều chõng” đã trở nên xa lạ với đất nước ta. Ngô Tất Tố, là một nhân chứng cũng như nạn nhân của cuộc đổ bộ cuồng phong “giáo dục Hán học”, có đủ tư cách và thẩm quyền để viết về học tập, thi cử, và giới nhà Nho thời xưa.
Lều chõng đã khắc họa một cách sống động, rõ nét, giúp thế hệ sau hiểu rõ hơn về không gian này – không chỉ là một phần của văn chương và chữ nghĩa mà còn liên quan chặt chẽ đến vận mệnh đại sự của quốc gia, đến sự tồn vong và hưng thịnh của đất nước.
Thành công vượt trội của Lều Chõng là khai thác “bi kịch” của giới nhà Nho – tầng lớp trí thức thời xưa. Chúng ta cảm thấy nghẹt thở khi ngắm nhìn cuộc sống đam mê của họ, nuôi ảo tưởng khát khao “cuộc đời vàng son” khi thành công, sau đó phải lăn lộn, lao đao tìm kiếm con đường bằng “khoa cử”. Sau khi mơ mộng tan vỡ, những “kẽ sĩ” đã tỉnh dậy, từ bỏ hoài vọng vào khoa cử để quay trở lại với cuộc sống hàng ngày.
Trong vòng nửa tháng trở lại đây, không gian văn học nhộn nhịp, đậm đà như chuẩn bị cho một sự kiện lớn. Đình trung điếm hay quán nước hàng quà chỉ là nơi các ông bà già, cây gậy, và gói trầu cau lớn như đấu hầu tụ tập. Chuyện mới, chuyện cũ luôn tuần tự theo nhau, phả hơi khói thuốc và tạo nên một bức tranh sôi động. Những trò tiên đoán và nhận xét xung quanh như cây cối.
Câu chuyện về việc hoa gạo nở vào đầu tháng giêng gọi là điềm lành. Tiếng khanh khách trên các đình trong ngày khai hạ cũng được xem là điềm lành. Dù chỉ xoay quanh một sự kiện nhỏ, sự náo nhiệt đã khiến mọi người không thể không bàn tán cả ngày qua, từ đầu đến cuối làng, với những tiếng cười đầy sôi động.
Buổi sáng, tiếng trống cái và tiếng khua của ba hồi đã làm sôi động không gian tại đình. Lý trưởng, phó lý, trương tuần mang theo thước chạy nhào từ đình đến điếm. Tiếng hiệu ốc và tiếng sừng kêu cùng nhau, thu hút người dân kéo ra ngoài. Dân làng kéo ra với đủ loại dụng cụ từ mai, thuổng, xẻng, cuốc tới gậy nạng và câu liêm; phụ nữ mang theo quang, thúng, sảo, sọt lủng lẳng dưới đầu gánh. Mỗi người đều tập trung và tiến vào sân đình như một đạo quân ra trận.
Bầu không khí trở nên càng ồn ào hơn. Nước chè đã được hết mấy chục bát. Hai thùng cau khô dần trở thành đống bã trầu. Tất cả mọi người đứng dậy, như đang chuẩn bị cho một trận đánh. Cả trăm người rờn rợn kéo ra đầu làng và tiến thẳng đến đoạn đường cùng tận địa giới.
Theo mệnh lệnh của lý trưởng, phó lý, trương tuần, dân phu bắt đầu từ từ trở về từ địa phận.Đường lối mát mẻ với cây cỏ xanh mơn mởn. Cỏ ven đường được cắt tỉa sạch sẽ, không cỏ rì, thật dễ chịu khi đi qua. Đường phố được làm sạch, không cái ánh tre nào lơ lững trên đường. Các ngõ ven đường được quét dọn sạch sẽ, không chút rác thải nào lạc lõng. Hương lỳ hòa quyện với sự hối hả của người dân. Công việc kéo dài từng giờ phút từ xóm này sang xóm khác. Trời dần ấm lên, cả trăm khuôn mặt đỏ ửng vì mồ hôi nhưng vẫn tận tâm với công việc của mình.
Gần đến giờ trưa, những con đường vòng veo, lầy lội biến thành những dải đất mịn màng như lụa mới. Tiếng cười vang đến như ngày lễ, các bà, các chị từ từ trở về sân đình. Sau khi trầu nước đã kết thúc, lão trưởng đứng trên bậc thềm nhà đình nói với tiếng lớn:
– Giờ trưa rồi! Mọi người nhanh “rửa chân rửa tay” và sắp xếp đồ đạc. Sau đó, đến ngay nhà quan tân khoa để chuẩn bị rạp, kê phản, sắp xếp đũa, bát nồi, đừng để trễ nhé?
Cuộc hối hả, ồn ào trong đám đông, nam, nữ từ từ trở về nhà. Trưởng xóm cắt đuôi lũ nhân viên thô xây vào cổng làng. Trưởng lão, phó lão cùng tất cả các người lớn tuổi nhanh chóng kéo về nhà của lão nghè mới. Từ cổng đến nhà bếp đều tràn ngập niềm vui. Các bà, các cô, các chị trong xóm tất bật tụ tập. Trên chiếc ghế dài ở giữa, lão trưởng ngồi vững chắc, dáng vẻ uy nghi. Bên cạnh, ông trưởng họ Trần thoải mái đánh quạt, bàn bạc vấn đề của ngày mai.
Ngoài sân, bà cũng như chị dâu, chạy tận mặt nạ định, sắp xếp đồ đạc. Sau khi phục vụ cúng tế cho các lão già, lão lão, lão trưởng, phó lão và bọn trùm trưởng ngồi xuống cuối cùng. Dân làng kéo đến từ mọi nơi. Từ nhà này đến nhà kia, người đứng, người ngồi, như một chợ đầy sức sống. Theo chỉ đạo của các lão lớn, những người giúp đỡ tìm công việc. Mượn mâm, mượn nồi, mượn đĩa và gánh nước đầy chum, vại, đó là công việc của phụ nữ. Các ông chia làm hai nhóm: một nhóm chôn tre, dựng rạp, kê phản, kê ghế, sắp xếp trang trí, nhóm còn lại vào chuồng bắt lợn, chế biến mâm cơm trưa.
Công việc diễn ra hối hả. Tiếng cười, tiếng mâm bát va vào nhau hòa quyện với tiếng lợn kêu ầm ầm ngoại oanh làm nên bâng khuâng to lớn. Sự nóng nực từ bếp phụ với sự ấm lên từ trời hè tạo ra phong cảnh hết sức sống động. Sau khi nấu xong, mâm cơm trưa đã sẵn sàng. Hai rạp lớn được lấp kín. Những chiếc chiếu hoa dài rải rác từ trong nhà ra sân. Hàng chục mâm rau thịt nằm trên bàn, đĩa xếp kín khắp nơi.
– Mời mọi người nhận thức ăn trưa xong hãy bắt đầu công việc.
Lời mời của ông trưởng họ Trần nghe rõ khiến mọi người đứng dậy. Nam giới với nam giới, nữ giới với nữ giới, từ khắp các làng, mọi người ngồi xuống cùng mâm cơm. Mâm này có thức ăn, mâm kia có nước, rồi một loạt mâm khác đổ nước canh, nước mắm. Lối đi trở nên chật hẹp trong sự xô bồ của mọi người.
Như một lễ hội, mọi người vui tươi nâng chén cất đũa. Ánh nắng mặt trời chiếu vào rạp, chỉ còn bát đĩa trống. Ông trưởng họ Trần khẳng định:
– Mời mọi người thưởng trà, sau đó ai cần tiếp tục công việc thì hãy bắt đầu. Còn nhiều công việc để hoàn thành. Hãy làm nhanh lên!
Các mâm cơm trưa dần trống rỗng khi nhường chỗ cho trầu đỏ và chè xanh thơm phức. Tiệc trầu nước kéo dài không lâu, mọi người đứng lên… Mai hãy tiếp tục với cuốn sách “Lều Chõng” của tác giả Ngô Tất Tố.