Cuốn sách “Mất Kết Nối” của Johann Hari là một tài liệu quan trọng về sức khỏe tinh thần, không chỉ dành cho những người đang trải qua chứng trầm cảm mà còn cho mọi người quan tâm đến vấn đề này.
Trong cuốn sách này, Hari chỉ ra 9 nguyên nhân của chứng trầm cảm, trong đó có 6 nguyên nhân chính liên quan đến việc mất mối kết nối. Đó là mất kết nối với công việc, với người khác, với những giá trị ý nghĩa, với vị trí xã hội và sự tôn trọng, với thế giới tự nhiên, và với một tương lai chắc chắn hoặc đầy hứa hẹn. Hari cũng đề cập đến nguy cơ mất mối kết nối khác là “mất kết nối do những cú sốc trong tuổi thơ”, khi mà những trải nghiệm kinh hoàng từ quá khứ có thể dẫn đến sự mất kết nối với tương lai và với chính bản thân.
Cuốn sách cũng khám phá vai trò của những thay đổi trong não bộ và gen trong gây ra chứng trầm cảm, nhưng Hari tranh biện rằng những yếu tố này chỉ là tiền đề, không phải nguyên nhân trực tiếp của chứng trầm cảm.
Tóm lại, “Mất Kết Nối” không chỉ là một cuốn sách giúp hiểu rõ về chứng trầm cảm mà còn là một nguồn thông tin quý giá để mọi người có thể hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của mối kết nối trong cuộc sống và cách thức để giải quyết vấn đề này.
—
“Với sự khôn ngoan, óc tìm tòi và hiểu biết vô cùng phong phú, Hari đã cho ra đời một cuốn sách với những tiết lộ có sức công phá mạnh mẽ về nỗi tuyệt vọng không khác nào dịch bệnh của chúng ta. Cuốn sách không chỉ nói về chứng trầm cảm mà còn về lối sống của chúng ta ngày nay – và sự cô đơn kéo dài đang tàn phá sức khỏe tâm thần tập thể và hạnh phúc của chúng ta nói chung.”
– Naomi Klein
“Một cuốn sách quan trọng, thách thức các quy ước, kích thích và cực kỳ đúng thời điểm. Đã đến lúc chúng ta nên nhìn sức khỏe tâm thần qua lăng kính của xã hội hơn là chỉ đơn thuần qua y học. Cuốn sách xuất sắc này giúp chúng ta làm được điều đó.”
– Matt Haig
“Đây là một trong những cuốn sách tuyệt vời mà bạn sẽ muốn giới thiệu cho tất cả bạn bè của mình đọc ngay lập tức – bởi vì sự thay đổi về thế giới quan mà cuốn sách mang lại quá hấp dẫn và kịch tính. Một cuốn sách mang đậm dấu ấn cá nhân của tác giả, được viết với sự khiêm tốn, hài hước và chân thành… Thành thật mà nói, tôi đã không thể buông nó xuống.”
– Brian Eno
“Một chuyên luận cực kỳ sáng tỏ về việc tại sao không một ai nên trở thành một hòn đảo cô độc… Từ chỗ hơi buồn bã đến tự sát – dù bạn đang cảm thấy thế nào – hãy đọc cuốn sách này, nó sẽ giúp bạn hiểu ra con đường ta phải bước đi nếu muốn thấy sự thay đổi thực sự về lâu dài.”
– Emma Thompson
“Johann Hari đặt ra những câu hỏi lớn và đưa ra những câu trả lời lớn – những điều đã bị bỏ quên quá lâu. Bạn không thể hiểu hết tai ương khủng khiếp của thời đại mà chúng ta đang sống cho đến khi đọc cuốn sách.”
– George Monbiot
“Một cuộc nghiên cứu quan trọng, hấp dẫn và mở mang tầm mắt về những lầm tưởng lâu nay của chúng ta về chứng trầm cảm và lo âu… Cuốn sách là sự kết hợp rực rỡ giữa khoa học, triết học và trải nghiệm cá nhân khắc nghiệt, ngoài ra còn mổ xẻ sự thật về sức khỏe tâm thần một cách có phương pháp.”
– Glenn Greenwald
—-
LỜI GIỚI THIỆU
Trầm cảm – một từ có lẽ đã không còn xa lạ với chúng ta. Ngày nay, khi sức khỏe tâm thần được nhìn nhận một cách nghiêm túc hơn và các ngành khoa học liên quan đã đạt được những bước tiến quan trọng thì khái niệm này ngày càng trở nên quen thuộc.
Tôi từng đọc được thông tin rằng: Khoa học đã phát triển đến một mức mà không ai trong chúng ta là không có bệnh. Với trải nghiệm cá nhân, tôi thường hay đùa rằng: Xã hội của chúng ta đã phát triển đến một mức mà không ai là không bị “trầm cảm”. Dĩ nhiên, tất cả nhận định – dù đùa vui hay nghiêm túc – đều là tương đối, nhưng có một sự thật không thể chối cãi, đó là trầm cảm đang hiện hữu và trở thành một trong những vấn nạn lớn của thời đại.
Nếu bạn đang cầm trên tay cuốn sách này, rất có thể bạn cũng liên quan đến trầm cảm ở một mức độ nào đó… Có thể bạn là một trong những người đang hằng ngày phải chống chọi với chứng trầm cảm để tìm lại ý nghĩa và niềm vui sống, hoặc ít nhất đã từng trải qua những giai đoạn không mấy dễ chịu. Có thể bạn đang phải học cách tồn tại cùng chứng trầm cảm, khi mà vợ/chồng, người thân của bạn là nạn nhân của trầm cảm và bạn muốn giúp đỡ họ bằng một cách nào đó. Hoặc, cũng có thể bạn trăn trở khi nhìn thấy trầm cảm đang len lỏi vào tất cả mọi ngõ ngách của cuộc sống xung quanh mình và tự hỏi:
“Tại sao ngày càng có nhiều người trở nên trầm cảm – trong một thời đại mà nếu xét về mặt vật chất, chúng ta đang ở đỉnh cao chưa từng có trong suốt chiều dài lịch sử nhân loại và tiện nghi cuộc sống giúp chúng ta dễ dàng kết nối với nhau hơn bao giờ hết? Phải chăng những giá trị mà xã hội và chính chúng ta đang vẽ ra không thực sự đáp ứng được những nhu cầu cơ bản nhất của chính mình? Phải chăng trên con đường tiến hóa, con người đã quên đi những điều thật sự làm mình hạnh phúc?”
Cuốn sách Mất kết nối của tác giả Johann Hari giúp người đọc có cái nhìn sâu sắc hơn về những câu hỏi này. Là nạn nhân của chứng trầm cảm từ tuổi thiếu niên, Johann Hari đưa người đọc đi vào thế giới nội tâm, những cảm xúc, suy nghĩ và trăn trở của anh trên hành trình khám phá ẩn số lớn nhất cuộc đời mình.
Trong hành trình kéo dài nhiều năm đó, anh đã gặp gỡ những nhà khoa học lỗi lạc nhất trong ngành tâm lý học, trò chuyện với nhiều bệnh nhân trầm cảm, cũng như đi đến nhiều nơi trên thế giới và chứng kiến những mô hình xã hội khác nhau để tìm hiểu sự thật về căn bệnh trầm cảm và trả lời cho những câu hỏi: Trầm cảm có thực sự là hậu quả của sự mất cân bằng trong não bộ? Những loại thuốc điều trị trầm cảm có thực sự mang lại tác dụng? Tại sao chúng lại được các bác sĩ và bệnh nhân “yêu thích” đến như vậy? Và nếu trầm cảm hay lo âu không phải hoặc không chỉ là vấn đề của não bộ thì yếu tố con người và xã hội đóng vai trò như thế nào trong việc hình thành và điều trị căn bệnh này?
Khác với nhiều tựa sách về chủ đề trầm cảm thường mang không khí nặng nề, u ám, Mất kết nối là sự kết hợp nhẹ nhàng và tự nhiên giữa một bên là những trải nghiệm rất cá nhân, chân thành, cảm động của tác giả và một bên là những nhận thức thuyết phục, đầy tính khoa học, bất ngờ và thậm chí gây sốc.
Johann Hari đã thành công khi kể câu chuyện của chính mình và nhiều người bằng một giọng văn gần gũi, có phần hài hước nhưng cũng rất mạnh mẽ, buộc người đọc phải hoàn toàn thay đổi cách nhìn về chứng trầm cảm. Nhưng quan trọng hơn hết, cuốn sách khiến chúng ta phải suy ngẫm lại về cách sống của chính mình, về khái niệm hạnh phúc và về nhu cầu cơ bản nhất của mỗi con người – nhu cầu “được kết nối”, một cụm từ mà nhiều người trong chúng ta đang vô tình bỏ quên hoặc hiểu một cách sai lệch.
Nếu bạn cũng như tôi, cũng thấy rằng cuộc sống này phải rộng lớn và nhiều ý nghĩa hơn là số tiền bạn kiếm được hằng tháng hoặc thương hiệu chiếc xe mà bạn đang chạy, cũng thấy rằng mối quan hệ giữa người với người phải sâu sắc hơn là những “tình bạn” hời hợt trên mạng xã hội, và giá trị của bản thân không thể cân đo đong đếm bằng số lượt like cho mỗi bài viết trên Facebook, thì tôi tin rằng Mất kết nối cũng sẽ mê hoặc bạn như đã mê hoặc tôi.
Mất kết nối không chỉ dành cho những ai đi tìm liều thuốc thật sự chữa chứng trầm cảm và lo âu, mà cuốn sách dành cho tất cả những ai muốn tìm thấy hạnh phúc và nắm bắt được giá trị thật nhất của mỗi con người.
– Giảng viên, Ca sĩ Hồ Trung Dũng
—
PHẦN I – KẼ HỞ CỦA CÂU CHUYỆN CŨ
Chương 1 – Cây Đũa Phép
Bác sĩ John Haygarth cảm thấy khó hiểu. Trên khắp thành phố Bath của Anh – và trong nhiều ngõ hẻm ở khắp phương Tây – hình như có một điều phi thường đang diễn ra. Những người đau đớn vì bị liệt suốt nhiều năm đang dần khỏi bệnh và có thể bước đi trở lại. Bất kể bạn bị liệt vì bệnh thấp khớp hay do làm việc nặng nhọc, bạn cũng có hy vọng có thể đứng dậy được. Chưa ai từng thấy một điều gì giống như vậy.
John biết một công ty của một người Mỹ tên là Elisha Perkins, đến từ Connecticut, đã công bố vài năm trước đó rằng họ vừa khám phá ra giải pháp cho tất cả các chứng đau – và chỉ có một cách để có được nó: Bạn phải trả tiền để sử dụng một thanh kim loại dày mà họ được cấp bằng sáng chế, có tên là “máy kéo” (tractor). Thiết bị này có những tính chất đặc biệt mà công ty sở hữu không thể tiết lộ cho bạn biết, bởi vì nếu nói ra thì các đối thủ cạnh tranh sẽ sao chép và giành hết lợi nhuận. Nhưng nếu bạn cần giúp đỡ, một trong những người đã được đào tạo để sử dụng máy kéo sẽ đến nhà bạn, hoặc tận giường bệnh của bạn, và giải thích một cách mơ hồ rằng: Máy kéo sẽ kéo bệnh tật ra khỏi cơ thể bạn và thải ra ngoài không khí, giống như cột thu lôi hút sét. Sau đó, họ sẽ chĩa máy kéo về phía bạn mà không chạm vào bạn.
Bạn sẽ cảm thấy nóng, thậm chí có thể là bỏng rát. Họ nói một cách chắc chắn rằng nỗi đau đang được kéo đi. Bạn không cảm thấy thế sao?
Và khi quy trình này kết thúc, nó có hiệu quả thật. Nhiều người bị cơn đau hành hạ thực sự đứng dậy được. Nỗi thống khổ của họ thực sự đã bị kéo đi. Rất nhiều trường hợp tưởng như tuyệt vọng vì bệnh tật nay đã được khỏi bệnh – ngay từ lần thử máy kéo đầu tiên.
Điều mà bác sĩ John Haygarth không thể hiểu được là làm cách nào để có kết quả đó. Tất cả những gì ông học được ở trường y cho thấy thật vô lý khi tuyên bố rằng đau đớn là một thứ năng lượng quái gở mà ta có thể trục xuất ra ngoài không khí. Nhưng ở đây, chính các bệnh nhân đã nói với ông rằng phương pháp đó có hiệu quả. Dường như chỉ có kẻ ngốc mới nghi ngờ sức mạnh của chiếc máy kéo.
Vì vậy, John quyết định tiến hành một cuộc thử nghiệm. Tại bệnh viện đa khoa Bath, ông lấy một thanh gỗ trơn dài và ngụy trang nó trong một lớp kim loại cũ. Ông đã tạo ra một chiếc “máy kéo” giả – một thứ chẳng có đặc tính bí mật nào của chiếc máy thật cả. Rồi ông đến gặp năm bệnh nhân trong bệnh viện của mình, đó là những người bị tàn tật do cơn đau mạn tính, bao gồm cả bệnh thấp khớp, để nói với họ rằng ông đang nắm giữ một trong những cây đũa phép của hãng Perkins nổi tiếng lúc bấy giờ và có thể giúp đỡ họ. Thế là, vào ngày 7 tháng Giêng năm 1799, với năm vị bác sĩ ưu tú ở đó làm nhân chứng, ông đã chĩa cây đũa phép về phía các bệnh nhân. Sau này, ông kể lại: “Bốn trong số năm bệnh nhân tin rằng họ khỏi bệnh ngay lập tức, và ba người cảm thấy nhẹ nhõm rõ rệt nhờ cái máy kéo giả”. Ví dụ, một người đàn ông bị đau đầu gối đến mức không thể chịu nổi bắt đầu đi lại thoải mái – và ông ta cho các bác sĩ thấy điều đó với niềm vui sướng.
John đã viết thư cho bạn ông, một bác sĩ xuất sắc ở Bristol, để yêu cầu bạn mình thử làm một thí nghiệm tương tự. Không lâu sau, người bạn viết thư phúc đáp, giải thích với sự ngạc nhiên rằng chiếc máy kéo giả của ông ta – cũng chỉ là một cái que bọc phủ kim loại – đã tạo ra những hiệu ứng đáng chú ý tương tự. Ví dụ, một bệnh nhân bốn mươi ba tuổi tên Robert Thomas bị đau thấp khớp ở vai trong nhiều năm đến nỗi không thể nhấc tay lên khỏi đầu gối khi ngồi – cứ như nó đã bị đóng đinh vào đó vậy. Nhưng trong vòng bốn phút sau khi được vẫy cây đũa phép lên người, anh ta đã giơ tay lên được vài phân. Họ tiếp tục điều trị cho anh ta bằng cây đũa phép trong mấy ngày sau đó, và chẳng bao lâu sau, anh ta đã có thể chạm tay vào mặt lò sưởi. Sau tám ngày điều trị với cây đũa phép, anh ta có thể chạm vào tấm bảng gỗ cao hơn mặt lò sưởi hẳn ba tấc.
Điều đó xảy ra với hết bệnh nhân này đến bệnh nhân khác. Thế nên họ tự hỏi: Lẽ nào trong chiếc que này có tính chất đặc biệt nào đó mà họ chưa từng biết đến? Họ đã thử thay đổi cuộc thí nghiệm bằng cách bọc một khúc xương cũ trong kim loại. Nó cũng hiệu nghiệm như vậy. Rồi họ thử bọc một tẩu hút thuốc lá cũ trong kim loại. “Cũng thành công y hệt”, ông ghi lại. “Một trò hề lạ lùng mà tôi chưa bao giờ được chứng kiến trước đây; chúng tôi gần như không dám nhìn mặt nhau”, một bác sĩ khác làm lại thí nghiệm đã viết cho ông như vậy. Tuy nhiên, các bệnh nhân lại nhìn các bác sĩ bằng cái nhìn biết ơn và chân thành nói: “Cầu mong Chúa phù hộ ngài”.
Tuy nhiên, điều bí ẩn là người ta ghi nhận rằng với một số bệnh nhân, tác dụng của chiếc đũa phép không kéo dài. Sau phép màu lúc đầu, họ lại trở về trạng thái cũ.
Điều gì đã xảy ra?
*
Khi bắt đầu nghiên cứu để viết cuốn sách này, tôi đã dành nhiều thời gian đọc những tranh luận khoa học về thuốc chống trầm cảm in trên các tạp chí y khoa trong vòng hơn hai thập niên trở lại đây. Tôi rất ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng dường như không ai biết rõ những loại thuốc này có tác động gì với chúng ta, hay tại sao -kể cả những nhà khoa học ủng hộ chúng một cách mạnh mẽ nhất. Có sự tranh cãi rất lớn giữa các nhà khoa học và họ không có sự đồng thuận với nhau. Nhưng trong cuộc thảo luận này có tên một nhà khoa học liên tục xuất hiện, nhiều hơn bất kỳ cái tên nào khác, và khi đọc những kết luận của ông trong các bài báo khoa học và trong cuốn sách The Emperor’s New Drugs (tạm dịch: Những loại thuốc mới của hoàng đế), tôi đã có hai phản ứng.
Đầu tiên, tôi cười nhạo, vì những tuyên bố của ông có vẻ thật ngớ ngẩn và trái ngược với trải nghiệm trực tiếp của tôi về mọi mặt. Rồi sau đó tôi thấy tức giận. Ông ấy dường như đang đạp đổ những trụ cột mà nhờ đó tôi đã dựng lên câu chuyện về căn bệnh trầm cảm của chính mình. Ông ấy đang đe dọa những gì tôi biết về bản thân mình. Ông ấy là giáo sư Irving Kirsch, và vào thời điểm tôi đến gặp ông ở Massachusetts, ông đang là phó giám đốc một chương trình hàng đầu tại Trường Y Harvard.
*
Vào thập niên 1990, Irving Kirsch ngồi trong văn phòng đầy sách và nói với bệnh nhân của mình rằng họ nên dùng thuốc chống trầm cảm. Đó là một người đàn ông cao với mái tóc xám và giọng nói nhẹ nhàng, tôi có thể hình dung ra cảm giác nhẹ nhõm của các bệnh nhân ấy. Rồi ông để ý thấy, đôi khi thuốc có tác dụng và đôi khi không, nhưng ông không nghi ngờ gì về lý do tại sao thuốc thành công: Trầm cảm là do mức serotonin trong não thấp và những loại thuốc này làm tăng mức serotonin của người bệnh. Vì vậy, ông viết ra những cuốn sách, trong đó mô tả các loại thuốc chống trầm cảm mới là một phương pháp điều trị tốt và hiệu quả, cần được kết hợp với các liệu pháp điều trị cho bất kỳ vấn đề tâm lý nào đang diễn tiến. Irving tin vào lượng nghiên cứu khoa học khổng lồ đã được công bố, và ông có thể tận mắt nhìn thấy những tác động tích cực của thuốc chống trầm cảm khi các bệnh nhân bước qua cửa phòng khám của ông cảm thấy dễ chịu hơn.
Irving cũng là một trong những chuyên gia hàng đầu trên thế giới trong lĩnh vực khoa học như John Haygarth khi lần đầu tiên ông vẫy cây đũa phép giả của mình. Ở thời điểm đó, bác sĩ Haygarth nhận ra rằng khi khám chữa cho một bệnh nhân, bạn đang thực sự mang đến cho người đó hai điều. Bạn cho họ một loại thuốc, thường sẽ có tác dụng về mặt hóa học trên cơ thể họ theo một cách nào đó. Và bạn kể cho họ một câu chuyện – về việc phương pháp điều trị sẽ ảnh hưởng đến họ như thế nào.
Haygarth kinh ngạc nhận ra rằng câu chuyện bạn kể thường quan trọng không kém gì phương thuốc. Làm sao chúng ta biết được điều này? Bởi vì nếu bạn không kê thuốc gì mà chỉ kể cho bệnh nhân nghe một câu chuyện – chẳng hạn, chiếc xương cũ bọc trong kim loại này sẽ chữa khỏi cơn đau cho bạn – thì nó cũng có tác dụng trong nhiều trường hợp hơn bạn có thể tưởng tượng.
Đây được gọi là hiệu ứng giả dược (placebo effect), và trong hai thế kỷ sau đó, rất nhiều bằng chứng khoa học đã được đưa ra. Các nhà khoa học như Irving Kirsch đã chỉ ra những hiệu quả rõ rệt từ giả dược. Chúng không chỉ có thể thay đổi cảm giác, mà còn thật sự có thể gây ra những tác động vật lý trong cơ thể chúng ta. Ví dụ, một giả dược có thể làm cho phần bị viêm ở hàm trở lại bình thường. Một giả dược có thể chữa khỏi bệnh loét dạ dày. Một giả dược có thể làm dịu – ít ra là làm dịu phần nào – hầu hết các vấn đề y tế ở một mức độ nào đó. Nếu bạn mong đợi nó có hiệu quả, thì với nhiều người trong chúng ta, nó sẽ hiệu quả.
Các nhà khoa học tiếp tục tình cờ phát hiện ra hiệu ứng này trong nhiều năm và cảm thấy thật bối rối với nó. Ví dụ: Khi quân đội Đồng minh chống cự Đức Quốc xã trong Thế chiến Thứ hai, những người lính bị rất nhiều vết thương khủng khiếp đến nỗi các đội y tế thường hết sạch thuốc giảm đau có gốc thuốc phiện. Một bác sĩ gây mê người Mỹ tên là Henry Beecher lo lắng rằng mình sẽ giết những người lính bằng cách khiến họ trụy tim nếu cứ cố phẫu thuật cho họ mà không có bất cứ thứ gì để gây tê. Thế nên, vì không biết phải làm gì khác, ông ấy đã làm một thử nghiệm. Ông nói với những người lính rằng ông đang cho họ uống morphin (một loại thuốc giảm đau), trong khi thực tế ông không cho họ uống gì ngoài một giọt nước muối chẳng pha tí thuốc giảm đau nào cả. Và các bệnh nhân phản ứng như thể họ được tiêm morphin. Họ không la hét và không bị sốc nặng. Nó đã có hiệu quả.
Vào giữa những năm 1990, Irving hiểu ngành khoa học này hơn hầu hết những người cùng thời, và ông sắp trở thành một nhân vật hàng đầu trong chương trình nghiên cứu nó tại Harvard. Nhưng ông biết rằng các loại thuốc chống trầm cảm mới hoạt động tốt hơn giả dược – rằng chúng có tác dụng hóa học thực sự. Ông biết điều này vì một lý do đơn giản. Nếu muốn bán một loại thuốc cho công chúng, bạn phải trải qua một quy trình nghiêm ngặt. Thuốc của bạn phải được thử nghiệm trên hai nhóm: một nhóm được cho uống thuốc thật, và nhóm còn lại được cho uống viên đường (hoặc một viên giả dược khác). Sau đó, các nhà khoa học sẽ so sánh hai nhóm này. Bạn chỉ được phép bán thuốc cho công chúng nếu nó hoạt động tốt hơn đáng kể so với giả dược.
Vì vậy, khi một trong những nghiên cứu sinh sau đại học của Irving – chàng trai trẻ người Israel tên là Guy Sapirstein – tiếp cận ông với một đề tài khoa học, ông đã bị hấp dẫn, nhưng không quá phấn khích. Guy nói rằng anh đang thắc mắc và muốn điều tra một điều. Bất cứ khi nào chúng ta dùng một loại thuốc, luôn có một tác dụng nào đó của giả dược bên cạnh tác dụng thật sự của chất hóa học. Nhưng tác dụng đó ở mức độ nào? Với các loại thuốc có dược tính mạnh, tác dụng của giả dược luôn được coi là một yếu tố phụ. Guy nghĩ rằng các loại thuốc chống trầm cảm mới là một trường hợp thú vị để thử tìm hiểu điều này – để xem niềm tin của chúng ta đóng bao nhiêu phần trăm vào hiệu quả của loại thuốc đó. Cả Irving và Guy đều biết trước rằng nếu họ bắt đầu khám phá câu hỏi này thì chắc chắn kết quả tìm thấy vẫn sẽ là dược chất đóng vai trò chủ yếu, nhưng đối với những nhà khoa học như họ thì việc hiểu rõ hơn về tác dụng giả dược – dù cho tác dụng này nhỏ đến mức nào -cũng là một điều thú vị.
Vì vậy, họ bắt đầu với một kế hoạch khá đơn giản. Có một cách dễ dàng để phân biệt tác dụng của bất kỳ loại thuốc nào mà bạn dùng, bao nhiêu phần là do hóa chất trong thuốc và bao nhiêu phần là do niềm tin của bạn vào chúng. Các nhà điều tra tiến hành chia những người tham gia thử nghiệm thành ba nhóm. Nếu bạn thuộc nhóm đầu tiên, họ nói với bạn rằng họ đang cho bạn uống một loại thuốc chống trầm cảm hóa học – nhưng thật ra, họ chỉ đưa cho bạn một loại giả dược: một viên thuốc đường, có hiệu quả giống như cây đũa phép của John Haygarth. Nếu bạn thuộc nhóm thứ hai, bạn được thông báo rằng bạn đang dùng thuốc chống trầm cảm hóa học -và bạn nhận được một viên thuốc thật sự. Còn nếu bạn thuộc nhóm thứ ba, bạn sẽ không được đưa bất cứ thứ gì – không thuốc thật mà cũng không thuốc đường; bạn chỉ được theo dõi.
Irving nói, nhóm thứ ba thật sự quan trọng – mặc dù hầu như tất cả các nghiên cứu đều bỏ qua nhóm này. Ông giải thích: “Hãy tưởng tượng rằng bạn đang nghiên cứu một phương pháp điều trị mới cho bệnh cảm lạnh”. Bạn cho mọi người dùng giả dược hoặc một loại thuốc. Theo thời gian, mọi người đều trở nên tốt hơn. Tỷ lệ thành công có vẻ đáng kinh ngạc. Nhưng rồi bạn nhớ ra rằng: rất nhiều người bị cảm sẽ bình phục trong vòng vài ngày. Nếu không tính đến điều đó, bạn sẽ nhận định thực sự sai lệch về hiệu quả của loại thuốc chữa cảm lạnh đang được nghiên cứu – cứ như loại thuốc này cũng chữa khỏi cho cả những người đã hồi phục một cách tự nhiên. Bạn cần nhóm thứ ba để kiểm tra tỷ lệ những người tự hồi phục mà không cần bất kỳ sự trợ giúp nào.
Thế là Irving và Guy bắt đầu so sánh kết quả đối với thuốc chống trầm cảm từ ba nhóm này, trong mọi nghiên cứu đã từng được công bố. Để tìm hiểu tác dụng hóa học của thuốc, bạn cần làm hai việc. Đầu tiên, bạn loại trừ tất cả những người tự hồi phục. Sau đó, bạn loại trừ tất cả những người khỏe hơn khi được cho một viên thuốc đường. Phần còn lại là tác dụng thực sự của thuốc.
Nhưng khi tổng hợp số liệu từ tất cả các nghiên cứu khoa học đã công bố về thuốc chống trầm cảm, những gì tìm được đã khiến họ cảm thấy bối rối.
Các con số cho thấy 25% tác dụng của thuốc chống trầm cảm là do phục hồi tự nhiên, 50% là do câu chuyện bạn đã được nghe kể về chúng, và chỉ 25% là thật sự nhờ hóa chất. “Điều đó làm tôi ngạc nhiên tột độ”, Irving nói với tôi trong tiền sảnh nhà ông ở Cambridge, Massachusetts. Họ cho rằng kết quả này không đúng – rằng có một sai lầm nào đó trong tính toán của họ. Ông kể với tôi rằng Guy tin chắc “có điều gì đó không ổn với dữ liệu này”. Vì vậy, họ tiếp tục xem xét nó, làm đi làm lại trong nhiều tháng. Ông nói: “Tôi phát ốm khi cứ phải nhìn vào các bảng tính và dữ liệu để phân tích nó theo mọi cách có thể”, nhưng họ biết chắc rằng phải có một sai lầm ở đâu đó. Tuy nhiên họ lại không thể tìm ra bất kỳ lỗi nào – vì vậy, họ quyết định công bố dữ liệu của mình để xem các nhà khoa học khác có khám phá nào khác từ đó không.
Kết quả là một ngày nọ, Irving nhận được một email nói rằng ông có lẽ chỉ mới phát hiện ra dấu vết đầu tiên của một vụ bê bối gây sốc hơn nhiều. Tôi nghĩ đây là khoảnh khắc Irving biến thành Sherlock Holmes của thuốc chống trầm cảm.
*
Trong email, một nhà khoa học tên là Thomas J. Moore giải thích rằng ông đã rất ấn tượng với phát hiện của Irving và ông tin rằng có một cách để thúc đẩy cuộc điều tra này – để tìm hiểu ngọn ngành về những gì đang thực sự diễn ra.
Moore nói rằng, hầu như tất cả các nghiên cứu khoa học mà Irving đã xem xét cho đến nay đều có một cái bẫy. Phần lớn các nghiên cứu về việc thuốc có hiệu quả hay không là do các công ty dược phẩm lớn tài trợ, và họ thực hiện những nghiên cứu này vì một lý do cụ thể: Họ muốn tiếp thị những loại thuốc đó để có thể thu được lợi nhuận từ chúng. Đó là lý do tại sao các công ty sản xuất thuốc tiến hành các nghiên cứu khoa học của họ một cách bí mật và chỉ công bố những kết quả nào có lợi cho thuốc của họ hoặc làm cho thuốc của đối thủ trông tệ hơn. Họ làm điều này vì những lý do giống như kiểu KFC sẽ không bao giờ tiết lộ thông tin cho biết rằng gà rán không tốt cho bạn chẳng hạn.
Đây được gọi là “thiên kiến công bố” (publication bias). Trong số tất cả nghiên cứu mà các công ty sản xuất thuốc thực hiện, 40% không bao giờ được công bố cho công chúng, và rất nhiều nghiên cứu khác chỉ được công bố một cách chọn lọc, tất cả các phát hiện có tính tiêu cực đều bị giấu kín.
Vì vậy, email ấy giải thích cho Irving rằng, cho đến nay ông chỉ đang xem xét những gì các công ty dược phẩm muốn chúng ta xem. Nhưng Thomas Moore nói rằng có một cách để vượt qua điều này. Moore nói với Irving rằng thực sự có một cách để tiếp cận tất cả dữ liệu mà các công ty dược phẩm không muốn công bố. Cách đó như sau: Nếu muốn phát hành một loại thuốc vào thị trường Hoa Kỳ, bạn phải đăng ký với Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) – cơ quan quản lý thuốc chính thức. Để hoàn thiện đơn đăng ký, bạn phải gửi đầy đủ tất cả các thử nghiệm bạn đã tiến hành, dù chúng có lợi hay có hại cho tỷ suất lợi nhuận của bạn. Giống như khi chụp ảnh selfie, bạn tự chụp mình hai mươi lần, chỉ để xóa hết mười chín tấm mà mặt bạn thấy rõ nọng hay mắt lờ đờ. Bạn chỉ đăng lên Facebook hoặc Instagram những tấm nào trông bạn thật nóng bỏng (hoặc, trong trường hợp của tôi, ít xấu xí nhất). Nhưng theo luật, các công ty dược phẩm phải gửi cho FDA toàn bộ những bức ảnh selfie họ đã chụp, kể cả những bức ảnh khiến họ trông béo hơn.
Email của Thomas cho biết, nếu Irving nộp đơn thông qua Đạo luật Tự do Thông tin, ông sẽ có thể xem mọi thứ. Khi đó, ta sẽ có thể biết điều gì đang thực sự diễn ra.
Bị hấp dẫn bởi điều này, Irving đã cùng với Thomas yêu cầu xem thông tin do các công ty dược cung cấp cho sáu loại thuốc chống trầm cảm được sử dụng rộng rãi nhất ở Hoa Kỳ vào thời điểm đó -Prozac, Paxil (loại thuốc tôi đang dùng), Zoloft, Effexor, Duronin và Celexa. Vài tháng sau, dữ liệu được gửi đến cho họ, và Irving bắt đầu xem xét nó như Sherlock Holmes với chiếc kính lúp.
Ông lập tức biết rằng, trong nhiều năm các công ty dược phẩm đã công bố các nghiên cứu một cách có chọn lọc ở mức độ lớn hơn những gì ông vẫn nghĩ. Ví dụ, trong một thử nghiệm đối với Prozac, loại thuốc này đã được cung cấp cho 245 bệnh nhân, nhưng công ty dược phẩm chỉ công bố kết quả của 27 người trong số họ. Đó là 27 bệnh nhân mà thuốc dường như có hiệu quả.