Cuốn sách “Ngày Mai, Ngày Mai, Và Ngày Mai Nữa” bắt đầu vào một ngày tháng Mười hai lạnh giá, khi Sam Masur vô tình nhìn thấy Sadie Green, cô bạn thuở nhỏ, giữa dòng người đông đúc ở ga tàu điện ngầm. Mặc dù cậu gọi tên cô, trong một thoáng, Sadie vẫn như không nghe thấy, nhưng sau đó cô quay lại, và trò chơi bắt đầu: một mối kết giao huyền thoại sẽ dẫn cả Sam lẫn Sadie lên đỉnh cao danh vọng.
Ở tuổi chưa đầy 25, Sam và Sadie đã có gần như mọi thứ: trí tuệ, thành công, và tiền tài. Tuy nhiên, tất cả những điều đó vẫn không đủ để bảo vệ họ khỏi tổn thương đến từ chính những tham vọng sáng tạo, hay những bội phản của chính trái tim mình.
Sau hơn ba mươi năm, từ Massachusetts đến California, và thậm chí cả những nơi lưng chừng và những vùng đất nằm ngoài thực tại, “Ngày Mai, Ngày Mai, Và Ngày Mai Nữa” là một cuốn tiểu thuyết rực rỡ, đầy công phu, mang đến cho độc giả sự khám phá về mọi khía cạnh của danh tính, về thất bại và thành công, về những thiếu sót và khả năng cứu chuộc vẫn luôn tồn tại, và trên hết, về mong muốn kết nối, yêu và được yêu của con người.
Được cả Amazon và Goodreads bình chọn là tiểu thuyết hay nhất năm 2022, “Ngày Mai, Ngày Mai, Và Ngày Mai Nữa” là một tác phẩm đáng để đọc và suy ngẫm về những khía cạnh sâu sắc của cuộc sống và con người.
—
1Trước khi Mazer thành danh vói cái tên Mazer, cậu là Samson Mazer. Trước khi là Samson Mazer, cậu là Samson Masur – chỉ thay đổi hai chữ cái trong tên là đủ để biến cậu từ đứa nhóc Do Thái hiền lành trở thành “Bậc thầy Xây dựng Thế giới”. Còn trong phần lón thòi niên thiếu của mình, cậu là Sam, hay S.A.M như chiếc máy điện tử thùng Donkey Kong của ông cậu ghi nhận trên top đầu bảng xếp hạng, nhưng chủ yếu vẫn là Sam.
Một chiều muộn tháng Mười hai cuối thế kỷ 20, Sam bước khỏi toa tàu điện ngầm thì thấy lối đi dẫn tói thang cuốn kẹt Cling bỏi một đám người bu đông lại, trầm trồ trước một tấm áp phích quảng cáo của nhà ga. Sam đang bị muộn giờ hẹn. Cuộc hẹn vói cố vấn học tập mà cậu đã lần lữa hon cả tháng tròi, nhưng đôi bên đều nhất trí rằng họ phải gặp nhau trước kỳ nghỉ đông. Sam chẳng có chút hứng thú nào vói đám đông này – cậu không muốn hòa mình vào họ, cũng chẳng quan tâm họ đang chú ý đến thứ xuẩn ngốc gì. Nhưng đám đông này là chướng ngại không thể tránh khỏi. Cậu buộc phải chen qua họ để di chuyển tói thế giói bên trên mặt đất.
Sam mặc chiếc peacoat ngoại cỡ màu xanh hải quân, lấy của cậu bạn cùng nhà tên Marx. Khi còn là sinh viên năm nhất, Marx đã mua chiếc áo này từ một cửa hàng thanh lý đồ quân đội và hải quân trong thị trail. Rồi nó bị Marx bỏ quên trong túi mua hàng suốt gần một học kỳ, cho đến tận lúc Sam hỏi mượn. Mùa đông năm ấy rét cắt da cắt thịt, lại còn đúng đọt bão Đông Bắc dài đến tháng Tư (Tận tháng Tư đó! Nghe có điên rồ không, những mùa đông Massachusetts!) khiến Sam cuối cùng cũng phải vứt bỏ lòng kiêu hãnh để hỏi mượn chiếc áo khoác bị lãng quên của cậu bạn cùng phòng.
Sam giả bộ rằng mình thích kiểu dáng cái áo, và đúng như dự đoán, Marx tỏ ý muốn tống cái áo đó cho cậu luôn. Như nhiều món đồ khác ở cửa hàng thanh lý nọ, chiếc áo bốc mùi ẩm mốc, bụi bặm, và cả mùi mồ hôi của những cậu lính trẻ đã hy sinh, còn Sam thì cố không đoán nguyên nhân chiếc áo này được đưa đến đó. Dù sao nó cũng ấm hon rất nhiều so với chiếc áo gió cậu mang theo từ California khi nhập học. Vả lại, cậu cũng tin rằng chiếc áo ngoại cỡ này phù họp để che đậy vóc dáng của mình. Nhưng sự thật thì cậu trông càng nhỏ bé và trẻ con hon trong chiếc áo bự chảng ấy.
Nói tóm lại, Sam Masur – ở tuổi hai mưoi mốt – không có thể chất phù họp cho việc chen lấn và xô đẩy giữa đám đông, thê’ nên cậu cố gắng hết mức để luồn lách qua họ, và cảm thấy bản thân y hệt con ếch khốn khổ trong Froggerw. Sam nhận ra mình đang lẩm nhẩm những câu xin lỗi, xin lỗi, xin lỗi dù cậu chẳng hề có ý đó. Não bộ loài người được lập trình thật đỉnh, Sam thầm nghĩ, khi nó có thể giúp cậu nói những câu “Xin lỗi” mà thực ra lại có nghĩa “Chết tiệt”. Trong tiểu thuyết, phim ảnh hay trò choi điện tử, trừ phi một nhân vật trông không đáng tin cậy, hay được thiết lập là một tên khốn hoặc gã điên, còn không thì khán giả thường sẽ nhìn nhận nhân vật vói đúng những gì họ thể hiện ra bên ngoài – từ lòi nói cho đến hành động. Vậy nhưng ngoài đòi thực, con người – dù bình thường, tử tế và thật thà đến đâu – cũng không thể vượt qua ngày dài đằng đẵng nếu thiếu đi một chút “lập trình tự nhiên” cho phép bản thân nói một đằng nhưng suy nghĩ, cảm xúc, hay thậm chí hành động lại một nẻo.
“Không biết tránh đường à?” Người đàn ông đội mũ đan macramé họa tiết đen và xanh lá hét vào mặt Sam.
“Xin lỗi,” cậu nói.
“Chết tiệt, suýt nữa là thấy được rồi,” một người phụ nữ đang địu con lẩm bẩm khi Sam đi ngang qua mặt cô.
“Xin lỗi,” cậu nói.
Thỉnh thoảng sẽ có người vội vã ròi đi, để lại khoảng trống giữa đám đông. Những chỗ trống đó đáng ra có thể trở thành lối thoát cho Sam, nhưng không hiểu sao, chúng ngay lập tức bị lấp đầy bỏi những người khác đang thèm khát một trò tiêu khiển.
Khi gần tói thang cuốn dẫn ra khỏi ga tàu điện ngầm, Sam mói quay lại nhìn xem đám đông kia đang chú ý đến thứ gì. Cậu có thể vẽ ra trong đầu cảnh mình kể lại chuyện ùn tắc ở ga tàu cho Marx nghe, để rồi nhận lại câu hỏi, “Mày không tò mò chuyện họ hứng thú vói cái gì à? Thử ngưng ghét con người một xíu thôi, mày sẽ nhận ra thế giói ngoài kia nhiều người và nhiều thứ hay ho đến thế nào.” Sam không thích việc Marx coi cậu là một thằng ghét con người, kể cả khi chuyện đúng là như thế. Vì lẽ đó, cậu quay lại, để rồi cùng lúc ấy nhìn thấy cô chiến hữu thuở bé, Sadie Green.
Cũng không phải là Sam không gặp lại cô lần nào trong suốt bao năm qua. Cả hai là khách quen của các hội chợ khoa học, các giải đấu game cấp trường, cũng như đủ thứ cuộc thi trên tròi dưới biển khác (hùng biện, chế tạo robot, viết lách sáng tạo, lập trình). Dù người thì theo học một ngôi trường công tầm thường ở phía đông (Sam), người thì học tại một ngôi trường tư hạng sang ở phía tây (Sadie), thì vòng tròn quan hệ của đám trẻ thông minh vùng Los Angeles vẫn vậy.
Đôi lúc, Sam và Sadie sẽ trao đổi ánh nhìn từ hai phía của căn phòng đầy ắp những đứa mọt sách – có lúc Sadie còn cười vói cậu, như thể chứng tỏ rằng mối quan hệ của hai đứa đã bình thường – trước khi cô lại bị bao vây bởi một đám toàn những đứa trẻ vừa đẹp đẽ vừa thông minh. Những cô cậu bé đó cũng giống Sam, trừ việc chúng giàu hơn, trắng hơn, vói hàm răng và mắt kính đẹp hơn. Còn Sam thì chẳng muốn sắm vai một đứa mọt sách xấu xí tham gia vào đám đông xung quanh Sadie Green. Thi thoảng, cậu muốn nghĩ về Sadie như một đứa xấu tính và tưởng tượng ra những hoạt cảnh mà cô tỏ ra coi thường cậu: như cái lần Sadie quay lưng với cậu, hoặc lần cô né tránh ánh nhìn của cậu. Chỉ có điều, Sadie chưa từng làm thế – nếu có thì chắc Sam đã cảm thấy khá hơn.
Sam biết chuyện Sadie đã vào học ở MIT, đôi lúc cậu còn tự hỏi có khi nào cả hai sẽ tình cờ gặp nhau nếu cậu đỗ vào Harvard không. Nhưng suốt hai năm rưỡi đại học, cậu chẳng làm gì để tạo ra cái thế “tình cờ” đó cả. Có lẽ Sadie cũng thế.
Nhưng ở đằng kia, chính là Sadie Green bằng xương bằng thịt. Việc nhìn thấy cô khiến Sam gần như muốn khóc. Như thê Sadie là hiện thân của chứng minh toán học đã lảng tránh Sam suốt bao năm ròng, để rồi khi nhìn lại bài toán sau một quãng dài nghỉ ngoi, dưới một góc độ mói mẻ, đáp án đã hiện ra rõ ràng trước mắt cậu. Sađie đây rồi. Đúng vậy. Cậu nghĩ.
Cậu định gọi tên Sadie, nhưng dừng lại. Cậu cảm thấy choáng ngọp trước quãng thòi gian đã trôi qua kể từ lần cuối hai đứa có không gian riêng vói nhau. Tại sao một người vẫn còn trẻ như Sam lại có thể tự nhận thức rằng bản thân đã để quá nhiều thòi gian trôi đi? Và tại sao, đột nhiên cậu có thể dễ dàng quên rằng mình đã từng chán ghét Sadie? Thòi gian, Sam nghĩ, quả là thứ bí ẩn. Nhưng chỉ sau thoáng chốc, suy nghĩ của cậu đã vượt qua những ưu tư hỗn độn ấy. Dâu sao thòi gian cũng là thứ có thể giải thích bằng toán học; chính trái tim – đúng hon là phần ý thức con người thể hiện qua trái tim – mói là điều bí ẩn.
Sau khi xem xong cái thứ thu hút đám đông kia, Sadie tiến tói chỗ đoàn tàu Red Line đang đến.
“SADIE!” Sam gọi tên cô. Ga tàu lúc này tràn ngập những âm thanh ồn ã của sinh hoạt thường nhật, hòa lẫn vói tiếng ầm ầm của đoàn tàu đang tói. Một cô bé choi nhạc của nhóm Penguin Cafe Orchestra trên cây đàn cello để kiếm tiền boa. Một ngưòi đàn ông vói tấm bìa kẹp hồ sơ trên tay xin chút thòi gian của khách qua đường để ủng hộ người tị nạn Hồi giáo ở Srebrenica. Bên cạnh Sadie là quầy sinh tố trái cây giá sáu đô la. Đúng lúc Sam gọi tên Sadie, chiếc máy xay bắt đầu chạy ù ù, tỏa mùi tinh dầu cam và mùi dâu giữa bầu không khí ẩm mốc dưới lòng đất. “Sadie Green!” Cậu gọi lại lần nữa. Có vẻ như Sadie vẫn không nghe thấy. Sam tàng tốc hết mức có thể. Cậu bước đi thật nhanh, nhưng ngược đòi thay, cậu lại cảm thấy mình như một kẻ đang tham gia thi chạy ba chân.
“Sadie! SADIE!” Cậu cảm thấy mình như một thằng ngốc. “SADIE MIRANDA GREEN! BẠN ĐÃ CHẾT vì KIẾT LỊ!”
Cuối cùng, Sadie cũng quay lại. Cô chậm rãi quét ánh mắt qua đám đông, cho đến khi nhìn thấy Sam. Cô mỉm cười, và trong mắt Sam, nụ cười ấy hệt như một đoạn phim tua nhanh cảnh đóa hồng nở rộ mà cậu từng được xem trong lóp Vật lý hồi cấp ba. Đẹp thật, Sam thầm nghĩ, và bất chợt, cậu thấy lo lắng, xen lẫn chút tự ti. Sadie vẫn mỉm cười khi tiến lại gần cậu – lúm đồng tiền bên má phải, cặp răng cửa hàm trên phải tinh ý lắm mói có thể thấy khoảng cách giữa chúng – còn cậu cảm giác như đám đông tự động nhường đường cho Sadie, điều sẽ không bao giờ xảy ra nếu đổi lại là mình.
“Bậy nào, chị tớ mói chết vì kiết lị đó, Sam Masur à,” Sadie lên tiếng. “Còn tớ là chết vì kiệt sức, sau khi bị rắn cắn.”
“Và vì không muốn bắn lũ bò rừng nữa.”
“Lãng phí lắm. Đống thịt đó sẽ cứ thế rữa ra,u.”
Sadie quàng hai tay ôm lấy cậu. “Sam Masur! Tớ mong gặp lại cậu mãi.”
“Có thể tìm thấy tớ trong danh mục liên lạc mà,” Sam đáp.
“ừ thì, tớ vẫn hy vọng có thể gặp tận mặt hơn,” Sadie nói. “Như bây giờ này.”
“Thứ gì đưa cậu đến quảng trường Harvard vậy?” Sam hỏi.
“Tất nhiên là vì Magic Eye<2) (Mắt Thần) rồi,” Sadie vui vẻ đáp lại. Cô ra hiệu cho Sam nhìn về phía tờ quảng cáo kia. Lần đầu tiên, Sam thực sự để mắt đến tấm áp phích khổ 150 X 100 centimét – thứ đã khiến đám đông dưới ga tàu điện ngầm trông không khác gì bầy xác sống.
QUAN SÁT THẾ GIỚI THEO CÁCH HOÀN TOÀN MỚI.
GIÁNG SINH NÀY, MÓN QUÀ AI AI CŨNG MUỐN CHÍNH LÀ MẮT THẦN.
Trên tấm áp phích là họa tiết loang lổ theo tông màu Giáng sinh của lục bảo, hồng ngọc và vàng kim. Khi nhìn vào họa tiết đó đủ lâu, não bộ sẽ tự đánh lừa bản thân để người xem có thể thấy được hình ảnh 3D ẩn bên dưới. Kỹ thuật này sử dụng ảo ảnh quang học để tạo ra hình ảnh lập thể, tương đối dễ làm với bất kỳ tay lập trình viên nào có đôi chút ngón nghề. Cái thứ này? Sam thầm nghĩ. Mọi người thấy cái thứ này hấp dẫn ấy hả? Cậu rên rỉ.
“Cậu không đồng tình à?” Sadie nói.
“Thứ này ở ký túc xá trong trường có mà đầy.”
“Nhưng không phải là cái áp phích này, Sam. Cái này chỉ có ở…”
“Mọi nhà ga ở Boston.”
“Khéo có ở toàn nước Mỹ luôn ấy chứ?” Sadie cười lón. “Sam này, cậu không muốn nhìn thế giói bằng đôi mắt thần ư?”
“Lúc nào tớ chả nhìn thế giói bằng đôi mắt thần,” cậu đáp. “Tớ vẫn đang bùng nổ vói cả tá suy nghĩ huyền diệu trẻ thơ đây này.”
Sadie chỉ về phía một cậu bé chừng sáu tuổi: “Nhìn đứa nhỏ kia đang vui sướng thế nào kìa! Thằng bé thấy nó rồi! Giỏi lắm em!”
“Thế cậu thấy chưa?” Sam hỏi.
“Tớ chưa,” Sadie thừa nhận. “Dù sao tớ cũng phải lên chuyến tàu tiếp theo luôn thôi, không thì muộn học mất.”
“Không sao, cậu còn tận năm phút để nhìn thế giói bằng đôi mắt thần.” Sam nói.
“Thôi chắc để lần sau.”
“Nào nào, Sadie. Học thì đi lúc nào mà chẳng được. Đòi có bao nhiêu dịp mà cậu nhìn vào một thứ, và biết tất cả những người xung quanh mình cũng đang thấy thứ đó, hay ít nhất là đôi mắt và bộ não của họ đang phản ứng vói cùng một hiện tượng chứ? Ta có bao nhiêu bằng chứng để chứng minh tất cả đang ở trong cùng một thế giói đâu?”
Nụ cười của Sadie có đôi phần gưọng gạo, rồi cô đấm nhẹ lên vai Sam. “Đây là lòi đậm chất Sam nhất mà cậu từng nói ra đấy.”
“Thì tớ là Sam mà.”
Sadie thở dài khi nghe tiếng chuyến tàu của cô ròi ga. “Nếu tớ trượt chuyên đề nâng cao môn Đồ họa Máy tính thì là tại cậu đấy.” Dứt lời, cô điều chỉnh tư thế để có thể nhìn thẳng về hướng tấm áp phích. “Sam, nhìn cùng tớ đi.”
“Vâng, thưa cô.” Sam đứng thẳng lưng ưỡn ngực, mắt nhìn thẳng về phía trước. Đã lâu lắm rồi cậu không được đứng gần Sadie như thế này.
Tấm áp phích hướng dẫn người xem thư giãn cặp mắt của mình, sau đó tập trung nhìn vào một điểm cho đến khi hình ảnh _>í mật hiện ra. Nếu làm vậy không được, cách tiếp theo là tiến gần tấm áp phích rồi chậm rãi lùi ra xa. Nhưng ở giữa ga tàu đông đúc này, nào đâu có chỗ để có thể làm thế. Mà dù sao, Sam cũng chẳng quan tâm hình ảnh bí mật kia là cái gì.
Cậu đoán hình ảnh bí mật trong tấm áp phích có thể là cây thông Giáng sinh, thiên thần, ngôi sao, nhưng chắc không phải ngôi sao David. Nó có thể là một thứ gì đó theo mùa, tầm thường nhưng được nhiều người ưa thích, một thứ gì đó giúp nhà sản xuất bán được nhiều sản phẩm thuộc dòng sách Mắt Thần này hon. Sam vốn không xem được mấy cái món hình ảnh lập thể kiểu này. Cậu đoán nguyên nhân là do cặp kính của mình. Cập kính cận dày như đít chai, không cho phép mắt cậu thư giãn đủ lâu để nhìn ra được hình ảnh ảo giác. Vậy nên, sau một khoảng thòi gian đáng nể (cụ thể là mười lăm giây), Sam từ bỏ việc tìm hình ảnh bí mật mà chuyển qua ngắm Sadie.
Tóc cô ấy giờ đây ngắn hon và có phần kiểu cách hon, cậu nghĩ thế, nhưng về cơ bản thì vẫn là mái tóc gọn sóng màu nâu đỏ như trước giờ. vẫn những đốm tàn nhang nhàn nhạt trên mũi, vẫn làn da màu ô lịu, nhung nhợt nhạt hon nhiều so với khi cã hai còn ở Cahíomia, cùng đôi môi hoi mít nẻ. vẫn cặp mắt nâu lẫn vói chút vệt vàng. Ngưòi mẹ Anna của Sam cũng có cặp mát như vậy, bà từng nói với cậu tình trạng đó gọi là loạn sắc tố. Lúc bấy giờ, cậu đã tưởng rằng đó là tên một căn bệnh, thứ có thể cưóp đi mẹ mình bất cứ lúc nào. Bên dưới mắt cô là vệt mờ hình trăng khuyết phải tính ý lắm mói nhận ra, nhưng từ nhỏ mắt cô cũng đã vậy rồi. Dâu sao, Sam cũng cảm thấy bạn mình có vẻ mệt mỏi. Nhìn Sadie, cậu thầm nghĩ, Có lẽ đây chính là du hành thời gian. Nhìn một người, và đồng thòi thấy họ trong cả hiện tại lẫn quá khứ. Kiểu du hành chỉ dành riêng cho những kẻ đã quen nhau một khoảng thòi gian rất dài.
“Tớ thấy rồi!” Sadie lên tiếng. Đôi mắt cô bừng sáng, còn biểu cảm thì hệt như những gì Sam nhớ về Sadie lúc cô mói chỉ mười một tuổi.
Sam nhanh chóng hướng mắt về lại tấm áp phích.
“Cậu nhìn thấy nó chưa?” Sadie hỏi.
“Tất nhiên,” Sam đáp. “Tớ thấy rồi.”
Sadie quay sang nhìn cậu. “Cậu thấy cái gì?”
“Thì nó đó,” Sam nói. “Quá đỉnh luôn. Đậm chất lễ hội.”
“Cậu có thấy nó thật không đấy?” Sadie nhoẻn miệng cười. Cặp mắt hai màu nhìn Sam ánh lên vẻ tinh nghịch.
“Thấy chứ, chẳng qua là tớ không muốn phá hỏng niềm vui của những người chưa nhìn ra nó thôi.” Cậu ra hiệu về phía đám đông.
“ừ, Sam,” Sadie nói. “Tốt bụng thế cơ đấy.”
Sam hiểu là Sadie biết tỏng cậu chưa nhìn ra gì. Cậu cười với Sadie, và Sadie nở một nụ cười đáp lại.
“Lạ thật đấy?” Sadie nói. “Tớ có cảm giác như thể hai đứa mình chưa từng ròi xa nhau. Kiểu như suốt bao lâu nay chúng mình ngày nào cũng xuống ga ngầm để nghiên cứu tấm áp phích này ấy.”
“Chúng ta grok™ mà,” Sam nói.
“ừ, chúng ta grok thật. Để tớ rút lại lòi lúc nãy. Đây mói là câu đậm chất Sam nhất mà cậu có thể nói ra đó.”
“Còn Sam nào ở đây được nữa. Mà này…” Nói đến đây, chiếc máy xay sinh tố lại phát ra tiếng kêu ù ù.
“Sao cơ?” Sadie nói.
“Cậu đến nhầm quảng trường rồi,” Sam nhắc lại.
“Nhầm quảng trưòng là sao cơ?”
“Cậu đang ở quảng trường Harvard, trong khi đúng ra thì cậu nên ở quảng trường Trung tâm hoặc quảng trường Kendall. Tớ nhớ cậu học ở MIT mà.”
“À, bạn trai tớ sống ở gần đây,” Sadie nói, tỏ ý không muốn tiếp tục chủ đề này nữa. “Mà tớ vẫn không hiểu tại sao họ lại gọi quảng trường là quảng trường nhỉ? Có phải cái quảng trường nào cũng hình vuông(1> đâu?” Một chuyến tàu nữa đang tói gần. “Tàu của tớ lại sắp đến nữa rồi.”
“Thì các chuyến tàu là thế mà,” Sam nói.
“ừ. Chuyến tàu, nối tiếp chuyến tàu, nối tiếp chuyến tàu.”
“Nên giờ hai đứa mình đi cà phê là chuẩn bài,” Sam nói. “Nếu cậu thấy uống cà phê xoàng quá thì đổi thứ gì đó khác cũng được. Trà chai. Matcha. Nước quả. Sâm banh. Có cả một thế giới đồ uống với vô hạn khả năng nằm ngay trên đầu chúng ta đó, cậu biết không? Chỉ cần bước lên chiếc thang cuốn đó thôi là chúng ta có thể tham gia vào thế giói đó.”
“Giá mà tớ có thể làm thế, nhưng tớ còn phải đến trường. Tớ mói xem được nửa bài thôi. Mà tớ cần đúng giờ vói điểm chuyên cần thì mói đủ qua môn nữa.”
“Nghe xạo quá,” Sam nói. Sadie là một trong những người thông minh nhất cậu biết.
Sadie ôm Sam một cái thật nhanh. “Mừng vì hôm nay gặp được cậu.”
Sadie tiến về phía đoàn tàu, còn Sam thì vắt óc tìm cách để khiến cô dừng bước. Giả như đây là một trò choi điện tử, cậu có thể bấm nút tạm dừng. Hoặc choi lại từ điểm lưu trước đó, chọn những câu trả lòi khác, chuẩn hon. Cậu có thể bói tung hòm trang bị của mình để tìm ra vật phẩm có thể giữ Sadie ở lại.
Còn chưa kịp trao đổi số điện thoại vói Sadie nữa, cậu tuyệt vọng nghĩ. Trí óc cậu lượn một vòng qua những cách giúp người ta tìm thấy nhau vào năm 1995. Ngày xưa, thuở Sam còn bé, người ta có thể cứ thế mà mất nhau mãi mãi, nhưng giờ thì không dễ như vậy nữa. Dần dà, chỉ cần muốn là bạn có thể biến một con người từ những phỏng đoán kỹ thuật số thành xác thịt phàm trần. Cậu tự thuyết phục bản thân rằng, dù hình bóng của cô bạn cũ đang khuất dần trong sân ga, thì thế giói vẫn tiếp tục vận hành và phát triển – cùng vói sự toàn cầu hóa và siêu xa lộ thông tin, hay những thứ tưong tự vậy. Sẽ rất dễ để tìm ra Sadie Green. Sam có thể đoán địa chỉ email của cô – địa chỉ email của MIT có chung một cú pháp. Cậu có thể tìm kiếm danh mục liên lạc của MIT trên mạng. Cậu cũng có thể gọi cho khoa Khoa học Máy tính – chắc là Sadie thuộc khoa đó. Hoặc đon giản hon, cậu có thể gọi cho bố mẹ của Sadie, ông Steven Green và bà Sharyn Friedman-Green, ở California.
Nhưng đồng thời, cậu cũng hiểu rõ bản thân, biết mình là loại ngưòi sẽ không bao giờ gọi cho ai, trừ phi chắc chắn một trăm phần trăm rằng mình sẽ được chào đón. Tư duy của cậu tiêu cực đến kinh hoàng. Cậu có thể tự huyễn hoặc bản thân rằng Sadie đang lạnh nhạt vói mình, rằng thực ra hôm nay cô không phải đi học, mà chỉ đang tìm cách lảng tránh cậu thôi. Bộ não sẽ nói vói cậu, nếu Sadie thực sự muốn gặp Sam thì cô ấy đã để lại cách để liên lạc rồi. Cậu có thể tự kết luận rằng đối vói Sadie, Sam tượng trưng cho một quãng thòi gian tồi tệ trong đời cô, vậy nên, tất nhiên rồi, cô sẽ chẳng bao giờ muốn gặp lại cậu nữa. Hoặc cũng có thể giống như những gì Sam vẫn ngờ vực từ xưa đến giờ – đối vói Sadie cậu chẳng là gì cả – cậu chỉ đơn thuần là được một cô tiểu thư nhà giàu ban ơn.
Cậu sẽ suy đi nghĩ lại về cậu bạn trai ở quảng trường Harvard mà Sadie nhắc tói. Cậu có thể tìm ra số điện thoại, địa chỉ email, chỗ ở của Sadie, để rồi không bao giờ dùng đến chúng. Thế là, vói tâm trạng nặng nề, Sam nhận ra đây rất có thể là lần cuối mình được gặp Sadie Green, và cậu cố gắng ghi nhớ từng chi tiết về ngoại hình của cô, người đang ròi đi trong sân ga, giữa một ngày mùa đông lạnh giá tháng Mười hai. Mũ cashmere màu be, găng tay, khăn quàng. Peacoat màu lông lạc đà dài đến ngang đùi, chắc chắn không phải mua ở cửa hàng đồ thanh lý. Quần bò xanh đã sờn, gấu quần cắt tua rua theo kiểu hoi kỳ lạ. Giày thể thao đen vói một vạch trắng.
Cặp da đeo chéo màu cognac rộng ngang vai, bị nhét nhiều đồ đến phình cả ra, tay áo len be sẫm thò ra bên miệng túi. Mái tóc cô ấy – bóng, hơi ẩm, dài vừa qua xương cánh bướm. Không còn chất riêng của Sadie nữa rồi, cậu kết luận. Cô ấy giờ chẳng khác gì những cô nàng sinh viên vừa thông minh, vừa khéo chăm sóc ngoại hình khác trong nhà ga.
Nhưng ngay trước khi Sadie đi khuất khỏi tầm mắt Sam, cô bỗng quay lại, chạy về phía cậu. “Sam!” Cô nói. “Cậu vẫn choi game chứ?”
“Còn,” Sam trả lời, giọng có phần nhiệt tình quá mức. “Tất nhiên rồi. Mọi lúc.”
“Đây.” Sadie dúi chiếc đĩa mềm vào tay cậu. “Đây là game tớ làm. Chắc cậu cũng rất bận, nhưng nếu rảnh thì choi thử nhé. Tớ rất muốn nghe ý kiến của cậu.”
Rồi cô chạy ngược lại về phía đoàn tàu, còn Sam đuổi sát theo sau.
“Khoan! Sadie! Làm sao để liên lạc vói cậu?”
“Địa chỉ email của tớ ở trong đĩa,” Sadie nói. “Trong file Readme ấy.”
Đoàn tàu đóng cửa, đưa Sadie đến trường. Sam nhìn xuống chiếc đĩa mềm trong tay: trò choi tên là Solution. Cái tên trên đĩa do chính tay Sadie viết. Nét chữ này, dù ở đâu đi chăng nữa, cậu cũng vẫn sẽ nhận ra.
Khi trở về nhà tối hôm đó, Sam không vội vã cài Solution luôn vào máy, nhưng đã để sẵn chiếc đĩa mềm bên cạnh ổ đĩa của máy tính. Đối với cậu, việc để dành trò choi của Sadie chính là nguồn động lực lớn. Rồi Sam bắt tay vào giải quyết cái đề cưong luận vàn năm ba, thứ đã bị quá hạn mất một tháng, và ở thòi điểm đó gần như chắc chắn sẽ bị dây dưa đến qua kỳ nghỉ lễ. Đề tài Sam chọn sau cả tá lần vò đầu bứt tóc chính là “Các cách tiếp cận thay thế vói nghịch lý Banach-Tarski trong trường họp thiếu đi tiên đề chọn”. Tuy Sam đã thấy khá chán ngán từ lúc viết đề cưong, nhưng sự vất vả khi bắt tay vào làm đề tài mói là thứ khiến cậu thực sự lo ngại. Cậu bắt đầu hoài nghi rằng mình không thực sự hứng thú vói toán học, dù cậu sở hữu năng khiếu tròi ban vói bộ môn này. Cố vấn học tập của Sam ở khoa Toán, Anders Larsson, người sau này giành được huy chưong Fields*1 11, cũng đã nói rất nhiều trong buổi làm việc chiều hôm đó. Lúc chào tạm biệt, thầy ấy đã nói: “Sam à, trò cực kỳ có năng khiếu. Nhưng cũng nên chú ý rằng giỏi một thứ gì đó không đồng nghĩa vói việc yêu thích nó.”
Sam ăn món Ý cùng Marx – Marx đặt dư ra rất nhiều để thằng bạn cùng phòng không lo chết đói trong lúc cậu ròi thành phố. Thêm một lần nữa, Marx rủ Sam đi trượt tuyết vói mình ở Telluride trong kỳ nghỉ lễ: “Tao thấy mày nên đi chuyến này, và nếu mày ngại vụ phải đi trượt tuyết thì không sao đâu, mọi người chủ yếu ngồi choi ở trong nhà nghỉ ấy mà.” Thế nhưng đến cả tiền để về thăm nhà trong kỳ nghỉ lễ Sam còn hiếm khi có đủ, vậy nên hết lần này đến lần khác, Marx thì cứ mòi mọc còn cậu thì cứ từ chối. Sau bữa tối, Sam bắt tay vào chuẩn bị bài cho lóp Lý luận Đạo đức (họ đang học về triết học của Wittgenstein lúc trẻ, thòi kỳ trước khi ông ta cho rằng mình đã sai về mọi thứ), còn Marx thì chuẩn bị hành lý để đi nghỉ lễ. Sau khi sửa soạn đồ đạc xong xuôi, Marx viết một tấm thiệp cho Sam rồi để nó trên bàn cậu bạn cùng phòng, cùng một tấm phiếu quà tặng trị giá năm mưoi đô la chỗ quán bia. Đó cũng là lúc Marx thấy chiếc đĩa mềm.
“Solution? Cái gì đây mày?” Marx hỏi. Cậu ta cầm chiếc đĩa mềm màu xanh giơ lên cho Sam xem.
“Game bạn tao viết,” Sam trả lòi.
“Bạn nào?” Marx đáp lại. Sam đã sống ở chỗ cậu được ba năm, và suốt quãng thòi gian đó cậu hiếm khi thấy thằng bạn cùng phòng nhắc đến chuyện bạn bè.
“Bạn hồi tao ở California.”
“Mày định choi thử không?”
“Rồi sẽ. Chắc là dở tệ ấy mà. Tao chỉ định choi ủng hộ bạn thôi.” Sam cảm thấy như mình đang phản bội Sadie khi nói ra những điều này, nhưng nhiều khả năng trò này dở thật.
“Con game này là về cái gì?” Marx hỏi.
“Chịu.
“Nhìn tên có vẻ hay đấy chứ.” Marx ngồi xuống máy tính của Sam. “Tao còn rảnh khoảng vài phút nữa. Bật lên choi thử nhé?”
“Thử thì thử?” Tuy ý định ban đầu của Sam là choi một mình, nhưng bình thường cậu cũng hay choi game cùng vói Marx.
Hai người chuộng game đối kháng: Mortal Kombat, Tekken, Street Fighter. Cả hai còn có một chiến dịch Dungeons & Dragons11’ mà cứ vài bữa lại lôi ra choi một lần. Chiến dịch này do Sam làm chúa tể ngục tối*1 2 3’, kéo dài cũng đã hon hai năm. Chỉ có hai ngưòi choi Dungeons & Dragons với nhau là một trải nghiệm hoi dị nhưng cũng rất thân thiết, và sự tồn tại của chiến dịch này được cả hai giữ bí mật vói tất cả những người họ quen.
Marx nhét chiếc đĩa vào trong máy, còn Sam cài game vào ổ cứng.
Vài tiếng sau, Sam và Marx lần đầu phá đảo<3) Solution.
“Cái quái gì vừa xảy ra vậy?” Marx hỏi. “Hỏng, tao muộn giờ đến chỗ Ajda lắm rồi. cổ giết tao mất.” Ajda, cô người yêu mói nhất của Marx là một vận động viên bóng quần hạng 511 kiêm người mẫu không chuyên đến từ Thổ Nhĩ Kỳ, một lý lịch thường thường bậc trung so với các đối tượng yêu đưong Marx hướng đến. “Không hiểu sao tao đã nghĩ là bọn mình chỉ choi có năm phút rồi dừng.”
Marx khoác lên mình chiếc áo khoác màu lông lạc đà, hệt như màu áo của Sadie. “Bạn mày đinh thật. Là thiên tài làm game không chừng. Thế quái nào mày lại quen được gã này thế?”