Tóm lược & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết dã sử Ngũ Hồ Chiến Sử của tác giả Chu Hiển.
Ngũ Hồ Chiến Sử là một tác phẩm xuất sắc, mang đến cho bạn đọc hành trình qua những thăng trầm của lịch sử với những nét đặc trưng của thể loại dã sử quân sự hoành tráng. Tác phẩm không chỉ tái hiện sự phân chia và hợp nhất của thiên hạ, mà còn khắc họa rõ nét những biến đổi xã hội cùng tinh thần đấu tranh không ngừng nghỉ của con người.
Khởi đầu từ triều đại nhà Hán, tác phẩm đưa ra sườn cảnh vào thời khắc Hán Cao Tổ khởi nghĩa, thống nhất thiên hạ sau khi chém rắn trắng. Tuy nhiên, sự thống nhất này lại không bền lâu, để rồi dưới triều Hán Quang Vũ Đế thịnh vượng, vương triều nhà Hán lại tiếp tục chia rẽ thành ba quốc gia: Ngụy, Thục, và Ngô. Thời kỳ Tam Quốc, dù chỉ diễn ra trong khoảng sáu mươi năm, nhưng đã để lại dấu ấn sâu sắc, mở ra một kỷ nguyên mới cho lịch sử Trung Hoa.
Nhà Tấn được hình thành từ sự thắng lợi của họ Tư Mã, nhằm khôi phục lại nền thái hoà cho thiên hạ. Tuy nhiên, thời kỳ này cũng không tránh khỏi những biến loàn, điển hình là loàn bát vương. Cuộc kháng chiến của Ngũ Hồ diễn ra đầy kịch tính, phản ánh sự bất ổn, nhưng cũng đồng thời là ý thức kiên cường của các dân tộc trong việc tự khẳng định quyền lực và bản sắc.
Đặc biệt, tác phẩm còn thay mặt cho một vùng đất, quận Thanh Hà, nơi diễn ra nhiều sự kiện lịch sử quan yếu, từ thời Xuân Thu cho đến khi Tần Thủy Hoàng thống nhất thiên hạ. Dù rộng lớn nhưng huyện Thanh Hà lại chỉ là một phần nhỏ trong bức tranh rộng lớn của lịch sử, thể hiện sự phong phú và đa dạng của văn hóa, truyền thuyết trong bối cảnh lịch sử ác liệt.
Ngũ Hồ Chiến Sử không chỉ là một tác phẩm giáo dục về lịch sử mà còn mang đến cho bạn đọc những xúc cảm thăng trầm, sâu sắc trong từng trang viết. Tác phẩm khắc họa một bức tranh lịch sử đầy dũng mãnh và kiêu hãnh, khiến cho người đọc không chỉ hiểu biết mà còn cảm nhận được sức mạnh của văn hóa và ý thức dân tộc.
Review Truyện Ngũ Hồ Thập Lục Quốc
Kumarajiva của mềnh khi trưởng thành bị cuốn vào đúng thời kỳ Ngũ Hồ Loạn Hoa này của TQ, vậy Ngũ hồ Loạn hoa hay Ngũ hồ thập lục quốc là thời kỳ nào ở Trung Quốc
Thời Tây Tấn [265-316], triều Tấn thống nhất Trung Quốc, đóng đô tại Lạc Dương ; Ngũ Hồ cư ngụ tại phía bắc và tây biên thuỳ, đối với vương triều Tấn, vị trí ở thế phong toả nửa bên trên. Do Tấn triều hủ bại, quan lại tham ô tàn độc, gây cuộc nội loàn 8 Vương tranh giành xâu xé [Bát Vương loạn 291-306] ; thừa dịp 5 dân tộc Hồ rần rộ cất binh, sử gọi là Ngũ Hồ Loạn Hoa, mở màn cho thời đại hỗn loàn mệnh danh Ngũ Hồ Thập Lục Quốc.
Ngũ Hồ Thập Lục Quốc khởi đầu năm 304, khi Lưu Uyên thành lập nước Hán Triệu, Lý Hùng lập nước Thành Hán ; rồi kết thúc năm 439 lúc nước Bắc Nguỵ diệt Bắc Lương. Phạm vi phía bắc lên đến vùng sa mạc Hoa Bắc, phía nam đến lưu vực sông Hoài tỉnh Hà Nam, phía đông đến Liêu Đông, phía tây đến Tứ Xuyên cùng Tây Vực. Nhiều dân tộc vào làm chủ Trung Quốc ; cốt tử có : Hung Nô, Yết, Tiên Ty, Đê ; gọi chung là Ngũ Hồ. Trong phạm vi nêu trên, những ngoại tộc này cùng lúc hoặc tiếp tục lập ra nhiều quốc gia ; sau đó nhân Sử gia Thôi Hồng thời Bắc Nguỵ thu thập sử liệu, chọn 16 nước điển hình biên soạn bộ sách Thập Lục Quốc Xuân Thu, nên trần thế sau gọi là 安祿山安祿山. 16 nước (5 Lương, 4 Yên, 3 Tần, 2 Triệu, 1 Thành Hán, 1 Hồ Hạ) gồm : Thành Hán, Tiền Triệu, Hậu Triệu, Tiền Lương, Tiền Yên, Tiền Tần, Hậu Yên, Hậu Tần, Tây Tần, Hậu Lương, Nam Lương, Tây Lương, Bắc Lương, Nam Yên, Bắc Yên, và Hồ Hạ. Nay tóm lược mỗi nước như sau :
1. Thành Hán, do Lý Hùng người dân tộc Đê mở nước năm 304. Dân tộc Đê từ thời Tần đến thời Tấn phân bố tại các tỉnh Cam Túc, Thiểm Tây, Tứ Xuyên ; ngoài Thành Hán ra, các vua Tiền Tần, Hậu Lương đều thuộc dòng tộc Đê. Nước Thành Hán bàn cứ tại vùng Tứ Xuyên, và một phần Vân Nam, Quí Châu ; định đô tại Thành Đô, mất bởi nhà đông Tấn năm 347.
2. Tiền Triệu, do Lưu Uyên người gốc Hung Nô sáng nghiệp năm 304 ; khu vực cai trị tại các tỉnh Hà Bắc, Sơn Tây, Thiểm Tây, Cam Túc, Hà Nam hiện nay. Bấy giờ nhà Tấn năm Quang Hy thứ nhất [306], vua Huệ Đế mất, Tư Mã Sí kế vị, niên hiệu Vĩnh Gia ; Lưu Uyên sai bọn Thạch Lặc mang binh xâm lăng phương nam, mấy lần đánh phá quân Tấn, thần thế Tiền Triệu càng thêm hùng mạnh. Năm 311, thời Lưu Thông nối ngôi, lại sai bọn Thạch Lặc mang quân đánh Tấn, diệt 10 vạn quân Tấn tại Bình Thành [Hà Nam], rồi đánh vào kinh kì Lạc Dương, bắt vua Hoài Đế ; thịt Vương, Công, sĩ, dân hơn 2 vạn người ; sử gọi là “ Vĩnh Gia chi loạn ”. Sau loàn này, tập đoàn cai trị nhà Tấn thiên cư xuống phương nam, đóng đô tại Nam Kinh, tạo dựng nhà Đông Tấn. Tiền Triệu truyền qua 4 đời vua, năm 329 bị Hậu Triệu Thạch Lặc diệt.
3. Hậu Triệu do Thạch Lặc, người dân tộc Yết, sáng nghiệp năm 319. Dân tộc Yết tồn tại không lâu trong lịch sử Trung Quốc ; nó là một chi nhánh của Hung Nô, cuối cùng lớn mạnh, xoá sổ Hung Nô. Thạch Lặc xuất thân là thuộc hạ nhà Tiền Triệu, năm 319 tự xưng là Triệu Vương, năm 329 xoá sổ Tiền Triệu. Thời cực thịnh chiếm cứ vùng đất thuộc các tỉnh Hà Bắc, Sơn Đông, Thiểm Tây, Giang Tô, An Huy, Cam Túc, Hồ Bắc, Liêu Ninh ; lập đô tại Tương Quốc [Hà Bắc] rồi dời đến Nghiệp [Hà Bắc]. Năm 351 bị Nhiễm Nguỵ diệt.
4. Tiền Lương : sau loàn Bát Vương [291-306] Lương Vương Trương Quỹ tiếp tục giữ bờ cõi, rồi truyền cho con cháu. Tuy chịu phong bởi nhà Đông Tấn, nhưng hai bên xa cách đến hàng vạn dặm, nên thực chất là chính quyền cát cứ. Tiền Lương cai trị khu vực thuộc các tỉnh Cam Túc, Ninh Hạ, Tân Cương ; định đô tại Cô Tang thuộc Cam Túc. Năm 376 bị Thiên vương Phù Kiên nhà Tiền Tần mang 13 vạn quân kỵ, bộ tiến công, Tiền Lương diệt vong.
5. Tiền Yên do Mộ Dung Hoàng Quang người Tiên Ty sáng nghiệp năm 337. Tiên Ty khởi nguồn từ bộ tộc Đông Hồ, phân bố tại cao nguyên Mông Cổ, phía bắc Trung Quốc. Thời Tần Hán bị Hung Nô Mạo Đồn đánh bại, bèn chia làm 2 phòng ban thoái lui đóng tại các núi Ô Hoàn và Tiên Ty, rồi lấy tên núi thành tên bộ tộc. Nước Tiền Yên cai trị khu vực Hà Nam, Hà Bắc, Sơn Đông, Sơn Tây, Thiểm Tây, Cam Túc, Liêu Ninh, An Huy, Giang Tô. Định đô tại Long Thành thuộc tỉnh Liêu Ninh, rồi dời đến Nghiệp tại Hà Bắc ; năm 370 bị diệt bởi Tiền Tần Phù Kiên.
6. Tiền Tần do Phù Kiện, dân tộc Đê, sáng nghiệp năm 351 ; cai trị vùng đất rộng lớn phía bắc sông Dương Tử gồm các tỉnh Hà Bắc, Hà Nam, Sơn Đông, Sơn Tây, Thiểm Tây, Cam Túc, Ninh Hạ, Liêu Ninh, An Huy, Giang Tô, Tứ Xuyên, Quí Châu, Hồ Bắc ; định đô tại Trường An [Thiểm Tây]. Đến đời Thế tổ Phù Kiên, mở rộng phương nam đối đầu với nhà Đông Tấn ; năm 383 giao chiến tại trận Phì Thuỷ [đông nam huyện Thọ, tỉnh An Huy], bị thảm bại. Trong trận này 8 vạn quân Đông Tấn do Tạ An chỉ huy, đã thắng lợi hơn 80 vạn quân Tiền Tần do Phù Kiên đích thân chỉ huy. Năm 385, Phù Kiên bị Diêu Trướng thịt, Tiền Tần diệt ; Diêu Trướng lập nên nhà Hậu Tần.
7. Hậu Yên do Mô Dung Thuỳ, dân tộc Tiên Ty, sáng nghiệp năm 384 ; định đô tại Trung Sơn [Định Châu, Hà Bắc], cai trị khu vực thuộc các tỉnh Liêu Ninh, Hà Bắc, Sơn Đông, Sơn Tây, Hà Nam. Bị Bắc Yên diệt năm 407.
8. Hậu Tần : Sau khi Phù Kiên thất bại tại trận Phì Thuỷ trở về kinh kì Trường An. Một quí tộc thuộc bộ tộc Khương 2 tên Diêu Trướng xưng Vương tại Bắc Địa [huyện Phú Bình, Thiểm Tây] ; năm 385 thịt Phù Kiên, chiếm kinh kì Trường An rồi định đô tại nơi này ; quốc hiệu là Đại Tần, sử gọi là Hậu Tần. Khu vực cai trị gồm các tỉnh Thiểm Tây, Cam Túc, Hà Nam. Truyền đến đời Diêu Hoằng, năm 417 bị tướng nhà Đông Tấn là Lưu Dụ [sau lên ngôi vua, tức Tống Vũ Đế] diệt.
-9. Tây Tần do Khuất Phục Quốc Nhân, người Tiên Ty, sáng nghiệp năm 385. Quốc Nhân nguyên là Trấn Tây Tướng quân, dưới quyền Phù Kiên. Sau khi Phù Kiên bại trận tại Phì Thuỷ, bèn tự chủ cát cứ, định đô tại Kim Thành [Lan Châu, Cam Túc], cai trị phía đông Cam Túc. Đến đời Khuất Phục Mộ Mạt kế vị, thoái lui về Nam An [Cam Túc] bị quân nước Hạ vây, Mộ Mạt ra hàng, nước bị diệt năm 431.
10. Hậu Lương do Lữ Quang người Đê dựng nước năm 386. Lữ Quang là tướng lãnh nhà Tây Tấn, từng lập công lớn tại Tây Vức. Sau trận Phì Thuỷ, Phù Kiên bị thịt ; Lữ Quang vào chiếm Lương Châu, thiết lập Hậu Lương đóng đô tại Cô Tang [Vũ Uy, Cam Túc]. Thống trị vùng Tân Cương, Cam Túc. Đến đời thứ 4, Lữ Long thế suy ; lại bị các nước Nam Lương, Bắc Lương, Hậu Tần liên tục xâm bức ; Lữ Long bèn hàng nhà Hậu Tần, nước mất năm 403.
11. Nam Lương do Ngốc Phát Ô Cô người Tiên Ty sáng nghiệp năm 397 ; định đô tại Cô Tang [Vũ Uy, Cam Túc], cai trị vùng đất Cam Túc, Tân Cương. Năm 414 hàng nhà Tây Tần, nước bị diệt.
12. Tây Lương do Lý Cảo dân tộc Hán sang nghiệp năm 400 ; định đô tại Đôn Hoàng, cai trị phía nam Cam Túc. Đến đời cháu là Lý Tuân bị nước Bắc Lương diệt năm 421.
13. Bắc Lương do Mông Tốn dân tộc Hung Nô sáng nghiệp năm 397; định đô tại Trường Dịch [Cam Túc]. Thống trị vùng Cam Túc, Tân Cương; năm 439 bị Bắc Nguỵ diệt.
14. Nam Yên do Mộ Dung Đức dân tộc Tiên Ty sáng nghiệp năm 398 ; định đô tại Quảng Cố [Thanh Chu, Sơn Đông]. Thống trị vùng Sơn Đông, Hà Nam. Năm 405 Mộ Dung Đức mất, con người anh là Mộ Dung Siêu nối ngôi. Năm 409 Lưu Dụ tướng nhà Đông Tấn bắc phạt; bắt được Siêu đem thịt, nước Nam Yên bị diệt.
15. Bắc Yên do Mộ Dung Cao Vân dân tộc Tiên Ty giành chính quyền Từ Hậu Yên năm 407, định đô tại Hoà Long [Liêu Ninh]. Thống trị khu vực Hà Bắc, Liêu Ninh ; năm 436 bị Bắc Nguỵ đánh, thế không kháng cự nổi nên vua tôi chạy trốn sang Cao Ly, nước Bắc Yên mất.
16. Hồ Hạ do Hách Liên Bột Bột dân tộc Hung Nô sáng nghiệp năm 407, định đô tại Thống Vạn [Thiểm Tây] ; ngự trị vùng Thiểm Tây, Cam Túc, Nội Mông Cổ. Đến đời con Hách Liên Xương bị Bắc Nguỵ đuổi xuống Thượng Bang [Thiên Thuỷ, Cam Túc] phương nam, rồi đến năm 428 Bắc Nguỵ vây hãm Thượng Bang, Liên Xương bị bắt. Riêng em là Hách Liên Định chạy đến Bình Lương [Cam Túc], tự xưng là Hoàng đế nước Hạ, bị nước Thổ Cốc Hồn 3bắt năm 439 rồi trao cho Bắc Nguỵ
Ngũ Hồ Chiến Sử Hậu Ký
Mời các bạn tải đọc sách Ngũ Hồ Chiến Sử của tác giả Chu Hiển.