Người Chăn Kiến là một tuyển tập truyện ngắn đầy ấn tượng với 19 câu chuyện đầy cảm xúc. Tác phẩm xoay quanh những chủ đề đau lòng như cuộc sống trong nhà lao và cảm xúc sau khi ra tù, những khó khăn đẩy người phụ nữ bộ đội vào nghề bán bia ôm, hay những tình huống bi thương trong xã hội đương đại. Bùi Ngọc Tấn đã tạo ra một nhân vật lôi cuốn trong câu chuyện “Người Chăn Kiến”, với sự tiếp xúc giữa thế giới thực và tưởng tượng trong tù.
Truyện kể về giám đốc bị oan và trải qua những trải nghiệm kỳ lạ trong tù. Từ việc vươn lên với vẻ trí thức, ông được một đồng tù giàu tưởng tượng khen ngợi và tha thiết cho trận đấu. Nhưng điểm đặc biệt chính là sở thích chơi chăn kiến của ông, một trò chơi kỳ lạ nhưng cũng đầy ý nghĩa. Câu chuyện này thực sự làm cho đọc giả suy ngẫm về tư duy của những người sống trong đau khổ nhưng vẫn giữ ngọn lửa lòng nhân đạo.
Tác giả, Bùi Ngọc Tấn, không ngừng chứng minh tài năng văn chương qua những tác phẩm sâu sắc như thế này. Cuốn sách mang lại những cảm xúc mạnh mẽ, làm người đọc suy tư về tình cảm và con người trong xã hội hiện đại. Được viết năm 2001, tác phẩm này thể hiện sự tận tụy và phong cách văn chương độc đáo của Bùi Ngọc Tấn.Tác giả của một cuốn tiểu thuyết đã tạo ra cú sốc vào năm 2000 đã chia sẻ quan điểm của mình về tình hình hiện tại và tương lai của tiểu thuyết Việt Nam.
BNT: Tiểu thuyết ở nước ta hiện tại vẫn còn ít điểm sáng. Mặc dù có những tác phẩm được ca ngợi, được khuyến khích đọc, được sử dụng trong giảng dạy, và được in ấn nhiều lần, nhưng sao mà nó vẫn “chết” cứ như vậy. Mỗi năm lại có những giải thưởng văn chương, giải thưởng tiểu thuyết nhưng không gì để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả. Trước kia trong thời kỳ chiến tranh, văn học được coi là minh chứng, phải tuân thủ “phải đạo”, điều đó có thể hiểu. Nhưng bây giờ, chúng ta không thể tiếp tục như vậy. Độc giả đã quá bận rộn, chúng ta đã chán chán chường. Mỗi cuối năm, chúng ta liệt kê thành tựu này thành tựu kia. Rồi không lâu sau, lại thấy rằng chúng ta vẫn còn thiếu sót, chưa phản ánh đầy đủ cuộc sống, thời đại này đòi hỏi viết ra những tác phẩm lớn phải ngang tầm với thời đại. Và mỗi năm tiếp tục liệt kê nhiều thành tựu khác. Rồi sau đó lại nghe ai đó nói rằng không đọc tiểu thuyết mười năm sau cũng không phát sinh vấn đề gì. Rồi lại khẳng định rằng tiểu thuyết chính là cột sống của một nền văn học. Và vòng lặp như vậy tiếp tục, không biết khi nào mới thoát ra được.
– PTV: Và những hội thảo tiếp tục diễn ra như thể mọi người đều mong muốn có một nền văn học tiểu thuyết xuất sắc. Nhưng thực tế…
BNT: Đúng vậy, các hội thảo, chi tiền, mời nhà văn, nhà lý luận. Học thuật. Kinh nghiệm. Trong và ngoài nước. Rút ra nhiều kinh nghiệm và kết luận. Người ta đều muốn có tiểu thuyết hay mà! Cuối năm 2002, Hội Nhà văn tổ chức hội thảo về Đổi mới tư duy trong tiểu thuyết và đã mời tôi tham gia. Nhưng tôi đã từ chối đi. Tôi cảm thấy những cuộc hội thảo kiểu này chỉ còn là hình thức. Tôi lo rằng, nếu tham gia, muốn góp phần vào thành công của hội thảo bằng cách thốt ra những suy nghĩ của mình, thì có thể sẽ trở thành scandal, gây phiền toái. Ví dụ, tôi sẽ đặt câu hỏi: Liệu chúng ta thực sự muốn có tiểu thuyết hay, tiểu thuyết xuất sắc không? Hay chỉ cần nói để nói? Mọi thứ có thật sự như vậy hay không? Những dẫn chứng, luận điểm trong những buổi hội thảo đều rất hay, rất chuyên sâu nhưng một điều cơ bản không ai đề cập hoặc phân tích, đó là Tự Do! Nếu không tự do, làm sao có thể có tiểu thuyết hay? Sao mà trong những buổi hội thảo về tiểu thuyết lại không thấy đề cập đến yếu tố Tự Do? Không có tự do, làm sao có tiểu thuyết xuất sắc? Làm sao có thể quản lý được tác phẩm A.25? Có sự giám sát từ cảnh sát? Chỉ cần nói về tiểu thuyết mà không có sự tự do, thì đã đi sai mục tiêu rồi. Tôi không trách móc hay căm ghét cán bộ văn hóa. Cứ nhìn họ, khi đi dự các buổi họp văn học nghệ thuật, họ cũng ngượng ngùng không biết phải làm gì! Điều mà tôi đang nói là về cơ cấu, một cơ cấu tồn tại quá lâu, quá phi lý nhưng lại trở nên tự nhiên như cuộc sống. Không ai dám tháo gỡ nó. Hãy nhớ rằng nhà văn đều là những người yêu nước, rất yêu nước. Hãy tin tưởng họ. Họ yêu nước không kém ai trên thế giới.
– PTV: Miễn là xã hội vẫn tiếp tục tổ chức theo kiểu đó, Hội Nhà văn “điều hành” văn học theo cách đó thì tiểu thuyết sẽ không tồn tại?
BNT: Có thể nói như này: Tôi cảm thấy đắng lòng về tương lai của tiểu thuyết Việt Nam.
– PTV: Mối quan hệ giữa nhà văn và quyền lực thường rất phức tạp, không chỉ ở Việt Nam mà ở mọi quốc gia. Nhưng thật lòng, có thể tin rằng có sự yêu nước trong những nhà văn, nhưng ít ai tin vào sức mạnh và ý chí của họ, bởi họ thường yếu đuối và thiếu quyết liệt. Và vì vậy, việc chính phủ quan tâm đến nhà văn và những buổi hội thảo không có ý nghĩa và là lãng phí.
BNT: Những nhà văn thực thụ thường ngồi yên bình bên bàn viết, dày công nghị lực trí tuệ vào từng câu chữ để kể những gì đã làm họ cảm động và mong muốn chia sẻ. Họ không thể đưa ra bất cứ áp đặt nào lên ai. Làm thế nào một tác giả tiểu thuyết đích thực, dù có tài năng như L. Tolstoi, G. Marquez hay E. Hemingway, qua từng dòng chữ của mình mà có thể làm thay đổi hệ thống
Tôi muốn trích dẫn lời của M. Kundera, nhà văn người Pháp gốc Tiệp: “Tôi đã thấy và trải qua cái chết của tiểu thuyết, cái chết không tự nguyện của nó (qua những hạn chế, kiểm duyệt, qua áp lực từ ý thức), trongTrải qua hành trình đầy sắc màu của cuộc đời, ta không thể không phải thừa nhận sự tồn tại của “thế giới toàn trị”…”
Dường như việc đọc một cuốn tiểu thuyết mà không tìm thấy tính chân thực có thể khiến ta cảm thấy không thoải mái phải không? Chân thực không chỉ là về chính trị hay đạo đức, mà còn về bản chất, cội nguồn của cuộc sống.
Việc viết một cách chân thực không chỉ là để tái hiện cuộc sống mà còn để thấu hiểu cội nguồn, động lực chính của cuộc sống. Tất cả đều đóng góp vào tính đặc biệt và giá trị của một tác phẩm văn học.
Việc nhìn vào chiến tranh từ nhiều góc độ khác nhau thay vì một góc nhìn duy nhất đã tạo ra sự mới mẻ và thú vị trong văn học. Chính việc này giúp chúng ta thấu hiểu rõ hơn về sự đa dạng và phong phú của thế giới xung quanh.
Không ngừng trau dồi và vun đắp cho bản thân, để có thể mang đến những tác phẩm chân thực, ý nghĩa và sâu sắc hơn. Đó chính là chìa khóa để không ngừng đi lên trên con đường sáng tạo văn học.Tại sao tôi đã chọn cách viết này? Tôi cảm thấy mình thuộc thế hệ già rồi, vì vậy sự đổi mới trong viết tiểu thuyết đôi khi có vẻ khó khăn đối với tôi. Nhưng điều quan trọng nhất đối với tôi là cuốn sách phải thuyết phục, không bịa đặt, và tôi cần viết sao cho bảo vệ được bản thân mình, tránh xa những cuộc tranh cãi vẫn thường xuyên xuất hiện với những tác phẩm gây tranh cãi, không loại trừ cả vòng xoay công bằng…
Có vẻ như vào thời điểm này, chúng ta đang đặt ra một khái niệm mới về viết thực tế, không dối trá, phải không? Thế hệ của chúng tôi đã trải qua những thời kỳ sung sướng và đau khổ, hạnh phúc và bi thương như tôi đã tóm tắt trong cuốn “Một thời để mất”, cuốn sách đầu tiên của tôi sau 27 năm im lặng. Tôi không muốn những thời kỳ đó bị lãng quên. Chúng tôi chuẩn bị rời khỏi thế giới này, tôi muốn thế hệ sau biết rằng đã có một nhóm người sống như chúng tôi. Tôi muốn nhà văn là thư ký, là người ghi chép lịch sử của thời đại. Điều quan trọng đầu tiên của những người này phải là sự trung thực, dù có bị chỉ trích là cổ.
Chương nào trong cuốn tiểu thuyết khiến ông cảm thấy hài lòng nhất? Thật khó khăn đối với tôi. Có lẽ đó là chương viết về già Đô, chương ở sân hợp tác kho. Và đặc biệt là chương về tiếng chim “còn khổ”. Những âm thanh đó đã châm ngòi sự tuyệt vọng sâu thẳm vào tâm trí của tôi. Mảnh đất sân hợp tác đó là tuổi trẻ của tôi. Và chương về già Đô là kết quả của sức tưởng tượng của tôi.
Già Đô có phải là nhân vật duy nhất được tưởng tượng không? “Già” là kết quả của việc kết hợp nhiều giống già khác nhau, bao gồm tình yêu của tôi dành cho một nhà thơ làm việc tại Đài Tiếng nói Việt Nam đã mất: Tuân Nguyễn.
Có người phàn nàn rằng cuốn sách hơi dài phải không? Có thể. Nhưng câu chuyện của Kafka, Dostoievski, Claude Simon chắc chắn cũng dài. Tôi tìm sự hấp dẫn trong các chi tiết chứ không phải cốt truyện phức tạp. Viết gần một nghìn trang mà không có cốt truyện, không kể chuyện hồi hộp không hề đơn giản. Đây là một thách thức. Viết về cuộc sống trong tù Việt Nam không có gì mới mẻ. Mỗi ngày tù đều giống nhau, và điều tồi tệ nhất là không ai chia sẻ tâm tư với nhau. Khó khăn lắm.
Cấu trúc câu chuyện thường xuyên qua lại giữa quá khứ và hiện tại, đôi khi biến đổi thứ tự. Phương pháp này liệu có phải là ý thức của ông không? Tôi tin rằng không có một nhà văn nào có thể thành công nếu họ đặt trước kế hoạch cho tác phẩm của mình theo một trường phái cố định nào. Khi viết, tôi chỉ muốn viết một cách hay, chân thực và bằng trái tim. Đối với tôi, văn chương chỉ có hai loại: hay và không hay. Tôi không theo đuổi các trào lưu. Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo đã cổ xưa từ lâu. Không có gì mới lạ. Khi Hemingway viết “Ông già và biển cả”, chắc chắn ông không nghĩ rằng mình sẽ viết theo trào lưu hiện đại, cổ điển, hiện sinh hay phản cấu trúc. Ông viết vì ông yêu biển Cuba và những người đánh cá Cuba đến mức không thể không kể về họ. Tôi tin rằng ông cũng đi theo cách này dựa trên kinh nghiệm cá nhân và của đồng nghiệp.
Khi tôi viết, tôi chỉ muốn viết theo cách tôi cảm nhận, tư duy. Đơn giản, chân thực như cuộc sống. Mọi người có thể hiểu. Cuốn sách của tôi không thuộc về một tầng lớp cụ thể nào, nó là của mọi người. Tôi không làm phức tạp những điều đơn giản, tôi không làm đơn giản những điều phức tạp. Phương pháp sử dụng các khung hồi ký chỉ để truyền đạt một trong những thông điệp của tôi: Ai đã bước vào nhà tù, sẽ không bao giờ thoát khỏi. Hãy cẩn thận, ai có quyền thế xử lý con người!
Nhớ truyện ngắn “Người chăn kiến” của ông. Sự theo đuổi được truyền tải một cách đặc sắc và súc tích hơn nhiều.Nhận xét về một số tác phẩm ngắn về ẩm thực phù hợp để giới thiệu đến bạn bè. Các tác phẩm như “Người ở cực bên kia”, “Khói”, “Người chăn kiến”, “Một tối vui”, và “Một ngày dài đằng đẵng” đều rất thu hút. Ví dụ, “Người chăn kiến” là một truyện ngắn thành công mà không thể so sánh. Nó chỉ một đường cày, trong khi “CKN 2000” như một cánh đồng to lớn.
Tôi rất ấn tượng với “CKN 2000”. Tôi cảm thấy như đã chạm tới đỉnh cao của mình khi đọc đến đây. Nó thực sự là một cuốn sách đáng để tận hưởng.
Đối với câu hỏi về bổn phận, tôi tin rằng trách nhiệm công dân là yếu tố quan trọng nhất. Nếu như thực hiện một cuộc thăm dò, tỉ lệ sự chân thực của cuốn sách có thể lên tới 99%, hoặc thậm chí cao hơn.
“CKN 2000” chắc chắn đáng để so sánh với các tác phẩm văn học cách mạng truyền thống. Cuốn sách đã vạch rõ cơ chế và trật tự nào đã tạo ra những biến tướng trong cuộc đời như hiện nay.
Tóm lại, “CKN 2000” mang đến thông điệp sâu sắc về những đóng góp và những thất bại của một thế hệ. Đây thực sự là một tác phẩm đáng để đọc và suy ngẫm về những hệ lụy của xã hội.Khi tôi thăm dò với sự tự tin tột độ, không phải để đáp ứng một cá nhân cụ thể, một nhóm cụ thể, không giải quyết một sự bực tức cá nhân nào. Điều tôi lo lắng nhất là viết ra những văn chương vô nghĩa làm phí thời gian của độc giả. Điều tôi sợ nhất là viết nhạt. Ông Nguyên Hồng đã nói một câu rất đúng: “Tội lớn nhất của các nhà văn Việt Nam là viết nhạt.” Tôi cố gắng tránh khỏi tội đó.
– PTV: Trong cuộc sống, ở tuổi bảy mươi, ông sợ điều gì nhất?
BNT: Tôi sợ nhiều điều lắm. Nhưng sợ nhất là những người gặp may mắn, được số phận chiều chuộng, chưa từng trải qua thất bại. Họ đầy chân lý và sẵn lòng truyền bá chân lý đó cho bất kỳ ai.
– PTV: Ông cảm thấy thế nào về cấp chính quyền?
BNT: Sau khi xuất bản CKN 2000, tôi đã bị mời lên công an nhiều lần. Nhà tôi, điện thoại của tôi bị theo dõi chặt chẽ. Nhiều cuộc họp đảng, mọi người truyền đạt rằng tôi là kẻ phản động, đưa vào tù vì viết sách chửi Đảng, chửi lãnh đạo. Chỉ cách đây ít lâu vào Tết Quý Mùi, ông bí thư phường tôi đã triệu tập cán bộ các ngành trong phường để tổng kết về Tết an toàn. Trong buổi họp, có một vấn đề cần chú ý là tôi đã được phân công trực ca ba, cả ngày và đêm. Kết thúc Tết mà không có sự cố nào, tôi mới thở phào nhẹ nhõm. Thêm vào đó, tất cả những người truyền đạt nhận xét về tôi đều chưa đọc tác phẩm tiểu thuyết của tôi. Một người bạn trong Đảng được mời viếng thăm đã nói rằng ông ta đã có bản photo của CKN 2000, ai muốn đọc thì được mượn, nhưng mãi mãi không ai đến mượn. Nghe nói cấp trên đều cho rằng không cần đọc, suy nghĩ, hay đánh giá để tránh làm mệt mỏi. Rất may tôi và vợ tôi đã quen với cách đối xử đó.
– PTV: Đọc về Ngọc, vợ của Tuấn, ta không thể không muốn khóc. Có vẻ như tình yêu đẹp như vậy đã hoàn toàn biến mất trong cuộc sống. Ông là một trong những nhà văn hiếm hoi (hay may mắn?) có một tình yêu đẹp với… vợ mình, yêu vợ thấm thía và chưa bao giờ phản bội?
BNT: Có phải là hiếm thật không? Hãy tưởng tượng như thế này, một cô gái Hà Nội nhỏ như viên kẹo, dễ thương, hiền lành, mơ mộng, có một tương lai rộng lớn và nhiều người theo đuổi, nhưng cô ấy đã chọn tôi, dành cho tôi trọn vẹn cuộc đời của cô ấy. Ngoài tình yêu, tôi đánh giá cao sự biết ơn vợ mình. Nhiều người khi vào tù, vợ hành hạ hoặc có chồng khác, cuộc sống tan nát. Con cái trở thành những kẻ lạc loài trong xã hội, và theo bước cha vào tù. Tất cả những gì tôi và con chúng tôi đang có hôm nay đều nhờ đến sự đóng góp của vợ tôi, một người đã sinh ra để sống cho người khác, vì người khác. Giờ đây, mỗi sáng quét dọn nhà cửa, nhặt những sợi tóc bạc của bà, tôi cảm thấy đau lòng. Cuộc sống sắp kết thúc, sử thi cũng sắp kết thúc. Có lẽ tôi sẽ phải quay trở lại viết thôi. Viết về tuổi trẻ mất đi, viết về tuổi già u sầu của tuổi trẻ. Về sự đau lòng trong những trái tim mệt mỏi, những chiếc đầu bạc đang đếm ngày cuối cùng… Hà Nội – Hải Phòng 2001 – 2002.
Phạm Tường Vân
Mời các bạn đọc Người Chăn Kiến của tác giả Bùi Ngọc Tấn.