Cuốn sách “Những cảm xúc bị dồn nén” của Isador Henry Coriat mang lại cái nhìn sâu sắc vào những bí mật tâm hồn và cung cấp chìa khóa giúp con người thấu hiểu và giải thoát những nỗi ấm ức đang bóp nghẹt trái tim họ.
Cuốn sách đề cập đến sự phức tạp của cảm xúc bị dồn nén, một loại tường thành tinh thần mà con người tạo ra để tự bảo vệ mình khỏi nỗi đau. Tuy nhiên, nếu không xử lý được cảm xúc này, nó có thể dẫn đến các rối loạn thần kinh nghiêm trọng.
Văn minh hiện đại đối diện với một lời nguyền nếu không thể giải quyết được mâu thuẫn tinh thần, giữa lí trí và cảm xúc, ý thức và vô thức. Cuốn sách phân tích rằng những cảm xúc đau khổ bị kìm nén bên trong con người là nguồn gốc của sự tổn thương và ác.
Tác giả nhấn mạnh rằng sức mạnh thực sự của con người nằm ở việc nhận ra, thấu hiểu và chấp nhận những cảm xúc dồn nén của mình, đưa chúng ra ánh sáng thay vì lấp chúng bằng lời hô hào về ý chí mạnh mẽ hoặc tìm đến sự trú ngụ trong tôn giáo.
Cuốn sách cũng đề cập đến vai trò quan trọng của nhà phân tâm học và nhà trị liệu trong việc giúp con người thấu hiểu và xử lý cảm xúc bị dồn nén của mình một cách chân thành và không đánh giá hoặc phê phán. Sự thấu hiểu và hỗ trợ từ những chuyên gia này có thể thay đổi cả bản chất và động lực của con người, mở ra cơ hội cải biến và phát triển tính cách. Mời các bạn đón đọc cuốn sách Những Cảm Xúc Bị Dồn Nén của tác giả Isador Henry Coriat
—-
GIỚI THIỆU
Tâm lí học, ở cả khía cạnh học thuật lẫn thực tiễn, giờ đây đang ở một ngã rẽ. Tương lai sẽ quyết định xem liệu nó vẫn vô ích như vậy hay sẽ trở nên có ích cho thực tiễn hơn. Nếu Harvey3, khám phá ra sự tuần hoàn của máu và đặt bước khởi tạo cho nền y học hiện đại, thì Freud cũng đã tạo ra con đường mới để tiến gần đến việc thấu hiểu tâm trí con người thông qua phân tâm học.
3 William Harvey (1578 – 1657) là một bác sĩ người Anh nổi tiếng, đã có công phát hiện ra quá trình lưu thông máu trong cơ thể người. Với khám phá về tuần hoàn máu, giới khoa học đã coi William Harvey là cha đẻ của nền y học hiện đại.
Thuật ngữ “bất thường” (abnormal) trong phân tâm học ám chỉ sự phóng đại các đặc điểm (tính cách hay suy nghĩ) nhất định khi chúng biểu lộ ra trong cuộc sống hàng ngày. Chẳng hạn, việc quên mất các từ quen thuộc và những dồn nén trong các ca loạn thần kinh chức năng là có cùng cơ chế với nhau. Khái niệm “vô thức” trong phân tâm học thật độc đáo. Nó giải thích rằng, mọi dữ kiện thực tế của ý thức không thể thu thập chỉ bằng việc xem xét nội tâm trong phòng thí nghiệm. Cái gọi là liên tưởng tự do mà tâm lí học thực nghiệm nhấn mạnh, thực ra chẳng tự do chút nào. Nhất định nó phải được thúc đẩy bởi các trải nghiệm có trước (tiền lệ) hoặc bởi các cơ chế vô thức. Đây chính là thuyết tiền định tâm linh (cho rằng không gì xảy ra ở trong đầu là ngẫu nhiên hay tùy hứng cá nhân). Thuyết này không chỉ giải thích khía cạnh tâm lí trong cuộc sống hàng ngày, mà còn giải thích giấc mơ và các biểu hiện rối loạn thần kinh chức năng. Tất cả những triệu chứng rối loạn thần kinh chức năng, khiếm khuyết trí nhớ, nói lỡ lời, v.v không phải khuynh hướng tình cờ mà đều có ý nghĩa và mục đích tâm lí rõ ràng. Nhưng ý nghĩa và mục đích này chỉ có thể được hé mở thông qua các phương thức kĩ thuật của phân tâm học.
Đầu óc con người luôn cảnh giác bảo vệ chính nó thông qua hành động nén các kí ức đau buồn và âu lo vào trong vô thức. Nhưng đôi khi việc này vượt quá khả năng của nó và dẫn đến các chứng rối loạn thần kinh. Phân tâm học là phương pháp thăm dò các sắp đặt tâm lí vô thức này. Toàn bộ phương pháp phân tâm dẫn ta đến thế giới của vô thức – một thế giới kì lạ, man rợ, nguyên sơ. Đây là chỗ chứa những cảm xúc bị dồn nén, một dạng Titan nguyên chất. Từ tầng ý thức, chúng được nhìn nhận như một thể ngoại lai và biểu hiện bằng các cơn âu lo, sợ hãi, phiền muộn và suy nghĩ cưỡng ép. Nhiệm vụ của phân tâm học là tra ra nguồn cơn của những dồn nén bị giấu đi này.
Phân tâm học cho thấy rằng, những động cơ thẳm sâu thôi đẩy con người không thể được giải thích dựa trên các phản ứng bề mặt bình thường. Chúng ta phải lần mò vào sâu hơn dưới lớp bề mặt đó: Những dồn nén và phản kháng mà một cá nhân không hề hay biết lại chính là một lực vô danh, vô hình điều hướng suy nghĩ của anh ta. Những hành động có lí trí của ý thức có thể khác nhau, song rút cùng các sắp đặt cảm xúc, vô thức của mọi loại đầu óc đều giống nhau.
Isador Henry Coriat
Boston, tháng Ba năm 1920
—-
Chương I
Ý NGHĨA CỦA NHỮNG CẢM XÚC BỊ DỒN NÉN
Phương pháp phân tâm học giống như một cuộc khai quật khảo cổ học, nó đào lên các phức cảm bị chôn vùi, và rồi sau đó chúng tự phân hủy. Giá trị của nó nằm ở việc kéo các động lực, thôi thúc và xung năng bị dồn nén vào ý thức – được nhận biết; ở việc đối mặt và thấu hiểu những ngăn trở gây nên rối loạn thần kinh chức năng.
DỒN NÉN CẢM XÚC – MỘT CƠ CHẾ PHÒNG VỆ CỦA Ý THỨC
Dồn nén cảm xúc là một cơ chế phòng vệ của ý thức chống lại những đau khổ tinh thần. Cơ chế này như một tấm khiên bảo vệ tinh thần. Rủi thay, nếu nó thất bại, có thể dẫn đến các rối loạn thần kinh nghiêm trọng. Trong quá trình dồn nén, có một mâu thuẫn liên miên giữa các cảm xúc nguyên sơ tồn tại trong vô thức với những xung năng thôi thúc tiến hóa cao hơn trong ý thức của con người. Cơ chế dồn nén là gốc rễ toàn bộ tư tưởng của Freud về đầu óc con người. Nếu không hiểu rõ về thuyết dồn nén thì khó có thể hiểu Phân tâm học. Cơ chế dồn nén đi theo cá nhân ở mọi giai đoạn phát triển tinh thần, từ tinh thần ban sơ của đứa trẻ, đến các kiểu mẫu được thống nhất rất phức tạp của đầu óc người lớn.
Trong quá trình phát triển của cá nhân, những thành phần quyền lực nhất định của đời sống tinh thần – chẳng hạn như xung năng ái dục4 – có thể phải trải qua sự dồn nén này. Trước khi thành một yếu tố xã hội, dồn nén trước hết là một hiện tượng cá nhân có tầm quan trọng lớn.
4 Sex motive (sex drive/sexual motivation): Là xung năng hay lực thôi đẩy phải thỏa mãn các nhu cầu tính dục, thông qua hoạt động tình dục trực tiếp hoặc những hành động dường như không liên quan (như thăng hoa). Trong tâm lí học của Freud, những khái niệm ban đầu về tính dục (sexuality) được mở rộng để bao trọn mọi hoạt động nhằm đạt được hay thỏa mãn khoái lạc của con người (Chú thích của ND).
Từ thời kì ban sơ của lịch sử, nhiều cảm xúc đã bị gạt sang một bên, các rào cản tâm lí được dựng lên để ngăn cản cảm xúc tiến nhập vào vùng ý thức. Dồn nén không phải chỉ là tạm kìm lại, đình chỉ lại những cảm xúc hoặc suy nghĩ bị cấm đoán. Mặc dù bị đẩy vào vô thức, nhưng những suy nghĩ và cảm xúc này lại đặc biệt năng động như thể tràn đầy năng lượng, như thể chúng được nhận thức rõ ràng trong ý thức. Các lực vô thức này có tầm quan trọng lớn trong quá trình phát triển của cả giống loài cũng như mỗi cá nhân:
(i) Đối với phát triển giống loài, chúng có thể dẫn đến mọi dạng bệnh tâm thần không ngừng quét qua xã hội.
(ii) Đối với phát triển cá nhân, chúng như là những cơ chế phòng vệ bản thân khỏi các ý nghĩ khổ đau, hay hoạt động dưới dạng những kẻ tạo ra triệu chứng của bệnh loạn thần kinh chức năng sau này.
Khái niệm dồn nén cảm xúc này rất quan trọng đối với phân tâm học. Nó giúp nhà phân tâm hiểu được các chứng rối loạn thần kinh chức năng khác nhau và những trò đùa tâm trí, chẳng hạn như tình trạng quên mất các từ quen thuộc. Tầm quan trọng xã hội của nó còn lớn đến mức: Xã hội văn minh sẽ nhanh chóng trở nên hỗn loạn nếu không có tác động của dồn nén cá nhân trong việc bảo vệ tính cách con người và trong việc dựng lên các rào cản xã hội nhất định. Ngay cả trong những bộ tộc nguyên thủy cũng tồn tại những cấm đoán về mặt phẩm hạnh – đạo đức và tôn giáo nhất định. Những cấm đoán này thực sự là những hình thái sơ khởi của dồn nén cá nhân và xã hội. Người man rợ, trông thì có vẻ thoải mái, không bị ràng buộc gì so với người văn minh, anh ta có thể chẳng thấy xấu hổ tí nào khi khỏa thân. Ấy vậy anh ta lại bị ràng buộc bởi những cấm đoán nhất định của bộ tộc – được gọi tên là taboo (điều cấm kị), đây là bộ luật bất thành văn cổ xưa nhất của loài người.
CHỨNG QUÊN – MỘT THÔI THÚC CỦA NHỮNG CẢM XÚC BỊ DỒN NÉN
Phân tâm học giải thích rằng: Mọi tình trạng “quên”, ngoại trừ quên do mắc bệnh thực sự về não, đều là do dồn nén gây ra. Hãy thử lấy ví dụ chi tiết về một trường hợp đơn giản, trong đó cơ chế dồn nén là một yếu tố vượt trội để hiểu về chứng quên này và động cơ đằng sau nó.
Có một người phụ nữ trẻ than phiền về khó khăn trong việc ghi nhớ hoặc nhớ lại các từ quen thuộc. Khám bệnh thì không tìm ra dấu hiệu bệnh tật nào về não bộ. Tìm hiểu sâu hơn mới hé lộ một thực tế rằng: Không hề có suy giảm trí nhớ thực sự. Những từ bị quên kia hóa ra có liên quan tới những tình huống cụ thể và những âu lo trong cuộc đời cô ấy. Tình trạng quên mất từ đó cũng không phải do lơ đễnh. Cô ấy càng tập trung vào một dữ kiện thực tế nào đó thì càng khó nhớ lại từ đấy. Bên cạnh đó, chứng quên này chỉ gắn với những từ quen thuộc. Đôi khi, một từ sai đi vào đầu cô ấy và ở lại đó, bất chấp nỗ lực tống nó ra ngoài. Phân tích tình trạng quên những từ quen thuộc này, chúng ta thấy rằng nó được thôi đẩy bởi một yếu tố từ vô thức: những cảm xúc bị dồn nén.
Ví dụ:
Cô hoàn toàn không thể nhớ lại cụm từ “sức mạnh tiềm tàng” (latent powers). Nhưng những liên tưởng tự do5 đã cho thấy rằng, tình trạng hay quên cụm từ này có liên kết chặt chẽ với những kí ức đau đớn bị nén lại về thói quen rượu chè trước đây của anh trai cô. Cô có nỗi lo sợ rằng, rượu có thể hủy hoại đầu óc anh ta, có thể khiến anh ta thất bại bởi không tận dụng được những sức mạnh tiềm tàng trong mình.
Một lần khác, cô không thể nào nhớ lại từ “người giúp việc” (accommodator – ý chỉ những người phục vụ trong nhà). Sau đó, quá trình phân tích đã hé lộ rằng do sa sút về kinh tế, cô thực sự không muốn có người giúp việc để giảm bớt gánh nặng tài chính. Chính âu lo về tiền bạc của cô đã chặn từ này và ngăn nó không đi đến vùng ý thức.
5 Freud gán thuyết Tiền định nghiêm ngặt (rigorous determinism) cho các sự kiện hữu hình trần thế, nghĩa là ngay cả cái gọi là liên tưởng tự do đến một từ cho sẵn cũng có liên hệ trực tiếp với từ ban đầu theo cách nhân quả (causative). Tuy nhiên, kết nối này không phải lúc nào cũng được thực hiện bởi chủ thể, vì nó thường quá vô thức.
Liên tưởng tự do (free associationa): Một phương pháp trị liệu được Freud đưa ra vào năm 1885 tại Paris thay thế cho phương pháp thôi miên. Năm 1896, Freud đã công bố những nghiên cứu trị liệu bằng phương pháp này. Những điều bị dồn nén vào cấp độ vô thức được thể hiện dưới dạng tính dục, những câu nói bông đùa hay hành vi sai lạc. Nhà trị liệu để bệnh nhân ngồi hoặc nằm thoải mái, thư giãn, để ý nghĩ của bệnh nhân xuất hiện tự do, và bệnh nhân sẽ kể lại những ý nghĩ diễn ra trong đầu, kể lại những mong muốn và những cảm giác về thể chất hoặc là hình ảnh tâm lí khi điều đó nảy lên trong trí não. Bệnh nhân được khuyến khích tự do nhớ lại những cảm xúc hay những trải nghiệm trong quá khứ, không e ngại động chạm đến những chuyện riêng tư, dù đó là những chuyện đau khổ hay không có liên quan. Những ý nghĩ của thân chủ có thể lộn xộn, nhưng những liên tưởng tự do này là toàn bộ đầu mối quan trọng cho công việc của nhà trị liệu (Chú thích của ND).
Căn nguyên của chứng quên các từ riêng lẻ đã được hé lộ, thế nên chúng không còn bị quên nữa, và cô ấy có thể nhớ lại chúng bất kì lúc nào. Sự bất lực không thể nhớ lại các từ quen thuộc rốt cuộc đã biến mất.
Trong trường hợp này có thể thấy rằng, tình trạng quên mất các từ quen thuộc không phải do suy giảm trí nhớ, mà là do yếu tố cảm xúc. Cảm xúc này bị nén lại, đã đánh lạc hướng, ngăn chặn một từ tiến vào vùng ý thức, mặc dù nó vẫn được bảo tồn trọn vẹn trong tiềm thức. Bản thân việc bảo tồn từ đó không mắc sai sót nào cả, nó được cất giữ nguyên vẹn, chỉ có khả năng lặp lại nó là có khiếm khuyết mà thôi. Sự dồn nén cảm xúc chính là nguyên nhân dẫn đến khiếm khuyết trong việc lặp lại này – nghĩa là những từ bị quên mất này có liên hệ với một cảm xúc khó chịu nào đó. Việc không thể nhớ lại được sinh ra nhằm mục đích bảo vệ tâm trí khỏi cảm xúc khó chịu kia. Nói cách khác, tình trạng quên là một hành động phòng vệ có chủ đích, nó được thôi đẩy bởi mong muốn quên đi những cảm xúc khó chịu.
Trong trường hợp này, vì mục đích chữa trị, không cần thiết phải phân tích mọi từ bị quên. Chỉ cần tháo gỡ một vài cảm xúc bị dồn nén, những dồn nén còn lại sẽ được giải tỏa, chúng ta sẽ không quên thêm những từ khác nữa.
Như vậy, khẳng định lại là: Các từ bị quên không biến mất, chúng được giữ trong vô thức. Chúng đơn thuần bị đánh lạc hướng và không thể nhớ lại được do bị dồn nén. Sự dồn nén này là cố ý, vì những từ đó có liên hệ với các biến cố gây khó chịu về mặt cảm xúc.
Đây là một ví dụ đơn giản về tác động của dồn nén cảm xúc.
Các phương pháp khác nhau được tạo ra để cải thiện trí nhớ vì thế xét ở phương diện này thành ra vô ích. Bởi chúng đều dựa trên giả thiết sai lầm rằng: Khiếm khuyết trí nhớ là do sự bất lực trong việc cất giữ các dữ kiện thực tế, yếu tố cảm xúc hoàn toàn không được để ý đến.
Tình trạng hay quên thông thường không phải do tình cờ, mà tuân theo những quy luật rõ ràng. Trong trường hợp trên, không chỉ có tình trạng hay quên, mà còn có cả hồi tưởng sai, tức là nỗ lực nhớ ra từ bị quên khiến họ gọi tên các từ thay thế khác. Cũng giống như quy trình gây ra chứng quên – một mong muốn quên vô thức, hành động thay thế từ thể hiện mong muốn che đậy vô thức đó.
Chứng quên này được thôi đẩy bởi sự dồn nén. Những nguyên liệu bị dồn nén đã đánh lạc hướng từ đó, ngăn không cho nó tiến nhập vào ý thức. Kết tinh xung quanh từ “bị quên” là những cảm xúc đau khổ và chống đối.
VÔ THỨC ĐƯỢC TẠO NÊN BỞI CÁC YẾU TỐ BỊ DỒN NÉN
Khi nghiên cứu quá trình phát triển tinh thần của cá nhân, chúng tôi thấy rằng những dồn nén đầu tiên không xuất hiện trước ba tuổi, và chủ yếu ám chỉ các xung năng thôi thúc ban sơ: đói ăn và tình yêu. Rồi những đứa trẻ đó bắt đầu có cảm giác xấu hổ, cảm giác khoái lạc trong thân thể, một vài thú vui nghịch ngợm nhất định với phân hay nước tiểu, ham muốn khỏa thân chạy loanh quanh và ham muốn phá hoại đồ đạc.
Khi trưởng thành rồi, dồn nén trẻ thơ chỉ xuất hiện trong giấc mơ bởi sự phòng vệ cao độ của ý thức và trước kiểm duyệt nghiêm ngặt của các quy ước xã hội. Dễ hiểu vì sao giấc mơ không-e-thẹn thường xuyên xuất hiện, chẳng hạn như mơ khỏa thân trước mặt nhiều người.
Vô thức được tạo nên bởi các yếu tố bị dồn nén, do vậy ở trẻ nhỏ, các giấc mơ – có nguồn duy nhất từ vô thức – thực ra đơn thuần là những mong muốn ăn và chơi theo nghĩa đen, mà không có bất kì bằng chứng dồn nén nào.
Điều này khiến ta phải xem xét một câu hỏi thú vị, có tính học thuật nhưng đầy ứng dụng thực tiễn, đó là:
Tại sao “vô thức” lại vô thức – không được biết đến?6
6 Tham khảo tiểu luận thú vị của Nicoll, Rivers và Jones, “Why is ‘Unconscious’ unconscious?” (Tại sao “vô thức” lại vô thức?), British Journal of Psychology (Tập san Tâm lí học Anh Quốc), Quyển IX, 1918.
Vô thức tập thể của chủng tộc/giống loài có mối liên hệ gì với những bản năng bầy đàn quan trọng nhất?7
7 Wilfred Trotter, Instincts of the Herd in Peace and War (Bản năng bầy đàn trong chiến tranh và hòa bình), 1918.
Tâm lí học đám đông có thể được giải thích rõ ràng nhất trong bản năng bầy đàn – tức là vô thức tập thể, chứ không ám chỉ riêng ai. Nó thực sự là một suy nghĩ non trẻ chưa kết tinh thành hành động có ý thức. Vô thức cá nhân là một phần của vô thức tập thể và không thể tách rời khỏi nó. Không cá nhân nào có thể được giải phóng khỏi đám đông hay khỏi cấu trúc xã hội mà anh ta sống. Điều này cũng giải thích cho cái gọi là “sự lây lan tinh thần” (mental contagion) trong một tập thể.
Theo đó, bản năng bầy đàn đảm bảo rằng hành vi của cá nhân sẽ hài hòa, trở thành một thể thống nhất với cộng đồng, cũng như xác định quy tắc đạo đức và xử thế, quan niệm và hành vi của con người. Bản năng bầy đàn, do vậy, thực sự là vô thức tập thể của xã hội.
VÔ THỨC CÓ SÁU ĐẶC ĐIỂM CHÍNH, CỤ THỂ NHƯ SAU:
1. Vô thức là kết quả của sự dồn nén cảm xúc, nó không tương thích với nhân cách văn minh của ý thức;
2. Về bản chất, vô thức là một thể năng động. Ở trong vô thức, các quá trình tinh thần năng động nhất được trau chuốt và dàn dựng tỉ mỉ. Khao khát (desire) vốn là bản chất của nỗ lực năng động này. Những xung năng khao khát này tạo nên các biểu hiện bên ngoài của vô thức;
3. Vô thức là kho chứa các bản năng nguyên sơ;
4. Vô thức có đặc tính thơ ấu và đặc tính này sẽ dai dẳng suốt cuộc đời;
5. Vô thức là phi lí và có khuynh hướng lờ đi các tiêu chuẩn thông thường của đời sống xã hội;
6. Các đặc tính tính dục của vô thức (dùng từ “tính dục” theo nghĩa rộng, mang tính phân tâm học) nổi bật hơn và biểu hiện ở dạng biểu tượng, thay vì dạng nguyên bản.
Dĩ nhiên không thể nói rằng, vô thức bao chứa toàn bộ các phẩm chất hèn hạ và hung ác của con người, rằng nó không có lí trí, nguyên thủy, hung dữ, độc ác, thiếu tính cá nhân và khả năng tự kiểm soát. Vẫn có những sự thăng hoa của vô thức, kết tinh trong chủ nghĩa anh hùng siêu phàm thời chiến tranh hay các cuộc cách mạng. Thực tế này cho thấy: Vô thức là kho chứa – nhưng không chỉ là kho chứa riêng của các bản năng nguyên sơ.
Về nguồn gốc của vô thức, tốt nhất là trích dẫn Otto Rank8 và Sachs9, đó là những người mà chúng ta hoàn toàn đồng thuận.
8 Otto Rank (1884- 1939) là một nhà phân tâm học, nhà văn và giáo viên người Áo. Sinh ra ở Vienna, ông là một trong những đồng nghiệp thân thiết nhất của Sigmund Freud trong 20 năm. Ông là người viết chuyên nghiệp về các chủ đề phân tâm học, biên tập viên của hai tạp chí phân tâm nổi tiếng của thời đại, giám đốc điều hành của nhà xuất bản Freud và một nhà lí luận và trị liệu sáng tạo. Năm 1926, Rank rời Vienna đến Paris và trong phần còn lại của cuộc đời, ông đã thành công với tư cách là một giảng viên, nhà văn và nhà trị liệu ở Pháp và Hoa Kì.
9 Hanns Sachs (1881- 1947) là một trong những nhà phân tâm học sớm nhất, và là một người bạn thân của Sigmund Freud. Ấn phẩm phân tích đầu tiên của Sachs về chủ đề giấc mơ (1912) đã được Freud trích dẫn trong nghiên cứu về tâm lí học nhóm, cũng như nghiên cứu sau đó của ông năm 1920 – The Community of Daydreams (Cộng đồng mơ mộng). Sau này, Sachs khám phá quy tắc làm giảm cảm giác tội lỗi bằng cách chia sẻ những giấc-mơ-ngày ở trẻ em và trải nghiệm nghệ thuật ở người lớn.
“Câu hỏi đầu tiên của chúng ta tất nhiên sẽ liên quan đến nguồn gốc của vô thức. Vì vô thức hoàn toàn đứng ở ngoài, xa lạ và vô danh trước nhân cách ý thức, xung năng thôi thúc đầu tiên là để phủ nhận kết nối với ý thức nói chung. Đây là cách mà các tín ngưỡng dân gian đã luôn đối xử với vô thức. Trong các trạng thái tinh thần bất thường, chúng ta có thể nhìn thấy các mẩu của vô thức, song luôn xem đó như việc “bị ám”. Chúng ta luôn coi đó là biểu hiện của một cá nhân kì lạ, của một con quỷ đã chiếm hữu bệnh nhân. Tuy nhiên, chúng ta không thể mãi đổ lỗi cho những thế lực siêu nhiên như thế nữa, mà phải giải thích các sự kiện thực tế này theo hướng tâm lí học. Giả thuyết rằng có một sự chia cách nguyên thủy đời sống tâm linh tồn tại từ khi sinh ra, một sự mâu thuẫn liên miên giữa hai lực lượng ý thức và vô thức. Vì chia tách này đã hiển hiện ngay từ ban đầu nên mối nguy dịch chuyển các ranh giới không tồn tại. Giả định khả thi duy nhất – được củng cố thêm bởi thí nghiệm – là: Sự chia tách giữa ý thức và vô thức không tồn tại sẵn đó, mà chỉ bắt nguồn và lớn dần theo thời gian. Tạo ra đường ranh giới này chính là trình độ văn hóa (level of culture). Do vậy, ta có thể nói là nó bắt đầu sớm vào thời thơ ấu và tạm thời chấm dứt vào khoảng thời gian dậy thì. Vô thức bắt nguồn trong thời thơ ấu của con người – hoàn cảnh này mang đến lời giải thích cho hầu hết các tính chất lạ thường của nó.”10
10 Otto Rank và Hans Sachs, The Significance of Psychoanalysis for the Mental Sciences (Vai trò của phân tâm học đối với các môn khoa học tinh thần),1915.
Một lượng dồn nén nhất định thường là công cụ bảo vệ an toàn cho cá nhân. Dồn nén quá mức có thể khiến cho các nguyên liệu bị nén lại bùng nổ. Nhất là khi con người cảm thấy mệt mỏi hay căng thẳng khủng khiếp, các chứng rối loạn thần kinh chức năng hoặc suy nhược thần kinh có cơ hội để phát triển. Một cơn suy nhược thần kinh không phải là do làm việc quá độ hay lo lắng quá mức, chúng chỉ đơn thuần là những kích thích giúp mở khóa các nguyên liệu vốn bị nén vào trong vô thức kia.
Tư tưởng phân tâm học này hết sức đúng đắn và hoàn toàn trái ngược với tuyên bố giáo điều của Babinski11: “Khi tâm hồn con người rung động trước một cảm xúc chân thành và sâu thẳm, thì chẳng còn chỗ nào cho chứng cuồng loạn trong tâm hồn đó.” Tất nhiên, một quan niệm như thế chỉ dùng để ứng phó với các quá trình ý thức có thể nhận biết được. Để hiểu được mối liên hệ của các cảm xúc bị dồn nén với chứng cuồng loạn, cần diễn giải vấn đề chứ không phải mô tả nó.
11 Joseph Jules François Félix Babinski (1857 – 1932) là một nhà thần kinh học người Pháp gốc Ba Lan. Ông được biết đến với mô tả về phản ứng Babinski – một phản xạ thực vật mang tính bệnh lí cho thấy tổn thương tủy sống và vỏ não.
Nền văn minh hiện đại phải hứng chịu một lời nguyền khủng khiếp: Đối diện với những cảm xúc bị dồn nén quá mức, con người đưa ra các quy tắc và chuẩn mực đầy nguy hiểm về hành vi, cư xử. Nhưng càng như thế, con người càng sống trong những mâu thuẫn liên miên giữa ý thức và vô thức, giữa lí trí và cảm xúc.
Khi dồn nén bắt đầu khởi phát trong đứa trẻ, đó là lúc những vấn đề tâm lí phát sinh. Đứa trẻ đáng ra cần được chơi và hoạt động tự do, người lớn không nên áp đặt luật lệ của mình lên nó. Nó nên được dạy cách làm chủ những cảm xúc đó, thay vì dựng nên một lí tưởng không thể nào hoàn thành, đến mức phải dồn nén lí tưởng này vào vô thức, khiến cho nội tâm nó mâu thuẫn, giằng xé.
Tính bạo dâm là một dạng cảm xúc căm ghét bị nén lại. Trong giáo dục trẻ giai đoạn đầu, sự căm ghét bị nén lại mạnh mẽ không biểu hiện ra ngoài. Nó chỉ hiển lộ trong vài cơn bùng nổ cáu kỉnh và giận dữ của trẻ. Trẻ con cũng lấy làm thích thú khi giáng sự trừng phạt vào đồ chơi, búp bê, những con vật hay những đứa trẻ khác – đối với trẻ em, đó là những đối tượng tượng trưng cho sự sống. Người trưởng thành dường như chưa bao giờ chế ngự thành công cái ác bị dồn nén này để chuyển hóa nó thành hoạt động xã hội hữu ích hơn. Họ giữ lại khoái cảm thơ ấu của mình bằng cách tìm kiếm sự thích thú từ việc gây ra đau khổ cho người khác.
Bi kịch thay, những kẻ thực hiện và gieo rắc cái Ác lên người khác không nhận thức được cái Ác bị dồn nén trong họ, và vô thức tìm kiếm những chỗ hòng thỏa mãn cái Ác bị dồn nén này.
Những người phản đối việc mổ xẻ động vật sống (để nghiên cứu khoa học) cũng có khả năng bị rối loạn thần kinh chức năng – các khuynh hướng bạo dâm vô thức gây đau đớn cho người khác của họ được che đậy hay bù trừ bởi sự dịu dàng quá mức dành cho động vật. Hãy xem ví dụ sau đây:
Một người phụ nữ trẻ đang được trị liệu do mắc một dạng chứng cuồng loạn lo âu nghiêm trọng. Hai giấc mơ sau đây đã xuất hiện vào một đêm nọ.
• Giấc mơ 1: Con chó nhỏ của cô hình như bị thương và chảy đầy máu, cô đưa nó tới một bác sĩ phẫu thuật thú y và đặt trên một tấm nệm.
• Giấc mơ 2: Con chim hoàng yến của cô bị hai con mèo giết và dính đầy máu.
Phân tâm học chỉ ra rằng: Có nhiều giấc mơ diễn ra trong một đêm, hay trong suốt khoảng thời gian ngủ, thì tức là những giấc mơ ấy có liên quan đến cùng một cảm xúc bị dồn nén. Nghi vấn trong những trường hợp kể trên là: Liệu chúng ta đang đối mặt với hai giấc mơ, hay hai nửa của cùng một giấc mơ? Các giấc mơ đại diện cho những cảm xúc bị dồn nén trong vô thức, chúng thỏa mãn những mong muốn hiện tại và được củng cố bởi những cảm xúc bị nén từ thời thơ ấu.
Trong trường hợp này, người phụ nữ trẻ bình thường vốn luôn quá thương cảm với động vật. Trong nhiều năm cô là thành viên của Hội ngăn chặn hành vi tàn nhẫn với động vật, đồng thời cũng là một người nhiệt tình chống mổ xẻ động vật sống. Chỉ cái ý tưởng gây đau đớn cho động vật thôi cũng đã luôn khiến cô buồn nôn và trở nên cuồng loạn nếu thấy một con vật phải chịu đựng. Sự nặng lòng của cô dành cho động vật lớn đến mức cô nuôi chim, chó, khỉ và thậm chí một con cá sấu khô trong nhà. Những phản ứng bên ngoài cho thấy người phụ nữ trẻ này rất nhạy cảm với sự đau đớn của động vật, ấy thế mà lại có một kho chứa cái ác bị dồn nén trong vô thức. Các giấc mơ của cô đã “tố cáo” điều đó, vì mọi giấc mơ là sản phẩm của sự dồn nén trong vô thức. Sự lo ngại cho những con vật không thể phản kháng đơn thuần chỉ là một sự phòng vệ của ý thức trước cái Ác bị dồn nén trong vô thức.
Một ví dụ tuyệt vời về tính bạo dâm trong lịch sử là Gilles de Retz từ Brittany – nguyên mẫu Yêu Râu Xanh – bị hành quyết vì tội sát nhân khoái lạc12 ở Nantes năm 144013.
12 Sát nhân khoái lạc (lust murder): Kẻ đi tìm cảm giác mê đắm bằng việc giết người khác.
13 Xem Thomas Wilson, Blue-Beard: A Contribution to History and Folklore (Yêu Râu Xanh: Một đóng góp cho lịch sử và văn học dân gian), 1899.
Trong tất cả các tác phẩm văn chương vĩ đại, nhân vật Iago – Yêu Râu Xanh có vị trí nổi bật, đó là một loại người mà cái ác bị nén lại, một kẻ tìm kiếm sự thỏa mãn khoái lạc trong nỗi đau đớn và thống khổ của người khác. Iago độc ác bởi vì gã bệnh hoạn, lấy đau đớn làm một nguồn khoái lạc; đằng sau đó ẩn giấu một nhân cách luôn hoài nghi, cay độc và hoàn toàn thiếu mất cảm xúc tình dục (erotic feeling). Iago không phải kiểu người “hiểm ác vô hướng đang đi săn tìm động cơ (motive-hunting)”, mà những động cơ ấy ẩn sẵn trong nhân cách của gã.
Thông thường, trong các mâu thuẫn vợ chồng – một phần rất lớn gây nên các chứng cuồng loạn – có một khuynh hướng bộc phát mạnh mẽ cái ác bị dồn nén khi vợ chồng cãi nhau. Khuynh hướng này có thể được gọi là: Các phản ứng thơ ấu trước những tình huống người lớn.
Lịch sử văn minh đã chứng minh chắc chắn rằng: Tồn tại một mối quan hệ gắn bó giữa tính độc ác và xung năng tính dục. Chúng ta có thể lấy ví dụ từ những đối tượng thèm khát được thỏa mãn khi chính họ bị quật bằng roi, hay khi họ quật người khác bằng roi, và những vụ sát nhân khoái lạc kiểu đó luôn luôn thu hút rộng rãi sự chú ý của công chúng. Đó thực sự là hành động thỏa mãn cảm giác tính dục bằng cái nhìn hoặc bằng cách gây đau đớn theo đúng nghĩa đen. Người trưởng thành nào cũng đều có khuynh hướng này ở một mức nhất định, nhưng nó thường bị nén lại rất nhiều. Ở những điều kiện nhất định, sự dồn nén sụp đổ, người trưởng thành rơi vào trong trạng thái thời thơ ấu – tức là ít hoặc không hề có dồn nén nào. Trong những hoàn cảnh này, cái ác bị dồn nén được phóng thích và phóng chiếu thành mọi dạng triệu chứng bất thường. Chẳng hạn trường hợp bật cười tự động, sau khi phân tích đã phát hiện là dựa trên những tưởng tượng bạo dâm, cái cười kia là khoái lạc trong vô thức với các ý tưởng về sự đau đớn.