Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Những Người Khổng Lồ Bé Nhỏ của tác giả Bo Burling Gham.
Cuốn sách này có thể được xem như một báo cáo thực tế về loại hình kinh doanh đang trỗi dậy ở Mỹ. Từng bước một, loại hình mới này gồm những đơn vị ưu việt đã và đang hình thành. Các đơn vị này không giống bất kỳ loại nào trong số ba loại thông thường hiện nay: đơn vị lớn, đơn vị đang phát triển, đơn vị nhỏ. Trong những đơn vị này, một số có thể rất nhỏ, nhưng lại có những đơn vị tương đối lớn. Dù rằng hồ hết các đơn vị đang trên đà tăng trưởng, thường là theo những xu hướng mới, song một số lại chọn cách không tăng trưởng, một số ít khác chủ động chọn cách tự thu hẹp quy mô hoạt động.
Tuy nhiên, nếu bỏ qua quy mô và tỷ lệ tăng trưởng, các đơn vị được đề cập trong cuốn sách này cũng có những nét chung nhất định. Trước tiên, các đơn vị này đều quyết tâm vươn lên vị trí dẫn đầu trong lĩnh vực mình kinh doanh. Hồ hết họ đều được các tổ chức trong ngành lẫn ngoài ngành ghi nhận là có sự vượt trội. Không phải ngẫu nhiên mà tất cả họ đều có được thời cơ tăng vốn điều lệ, tăng trưởng nhanh, sáp nhập và mua lại, mở rộng địa bàn hoạt động hoặc họ cũng có thể chọn đi theo lối mòn của những đơn vị đã thành đạt khác. Tuy nhiên, họ đã chọn phương thức không chú trọng vào việc tăng thu nhập hay mở rộng thị phần, thay vào đó, họ chọn theo đuổi những mục tiêu riêng mà họ cho là quan yếu hơn cả việc mở rộng và tăng trưởng. Để kết hợp được các nguyên tố trên, các đơn vị đã phải duy trì sở hữu tư nhân, với phần đông vốn cổ phần nằm trong tay một cá nhân hoặc một nhóm cá nhân có cùng chung chí hướng, hay trong một số trường hợp khác, số vốn đó thuộc về các viên chức.
Đó có thể là lý do vì sao trước đây các đơn vị kiểu này không được xác nhận là một hiện tượng trong kinh doanh với nhân cách cá nhân. Chúng ta có xu hướng không quan hoài mấy đến các đơn vị tư nhân, nhất là những đơn vị vừa nhỏ lại vừa không muốn bán ra cổ phần. Nghe có vẻ khó tin nhưng chính các đơn vị cổ phần công chúng, vốn chỉ là một phần nhỏ trong giới kinh doanh, đã giúp chúng ta hình thành ý kiến về kinh doanh, nói đúng hơn, đó là toàn bộ những gì chúng ta hiểu về kinh doanh.
Một nguyên tắc trong kinh doanh là dần dần chúng ta phải chấp nhận nhiều ý kiến Khác nhau mà trên thực tế chúng chỉ được vận dụng cho những đơn vị lớn. Chẳng hạn, theo kinh nghiệm kinh doanh thông thường, bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng chỉ có một trong hai khả năng: hoặc phát triển, hoặc vỡ nợ. Điều này hoàn toàn đúng đối với hồ hết các đơn vị đại chúng. Khi đầu tư vào những đơn vị này, người ta luôn yêu cầu và kỳ vọng đơn vị sẽ không ngừng tăng sản lượng hàng hóa tiêu thụ, lợi nhuận, phát triển thị phần và tăng doanh thu. Ngược lại, nếu hoạt động sa sút hay đình trệ thì đơn vị sẽ phải đóng cửa. Tuy nhiên, vẫn còn hàng nghìn đơn vị tư nhân tăng trưởng hầu như không đáng kể, nếu không muốn nói là không tăng trưởng, nhưng vẫn vận hành khá tốt.
Jack Welch, cựu Tổng Giám đốc điều hành General Electric có một câu nói nổi tiếng là: “Tôi không muốn sở hữu bất kỳ một doanh nghiệp nào trừ phi đó là doanh nghiệp chiếm thị phần nhất nhì trong lĩnh vực nó kinh doanh”. Nhiều người đã đặt ra câu hỏi rằng liệu General Electric dưới thời của Welch có thực sự làm được như ông nói không. Tất nhiên, những đơn vị con của General Electric không làm được như vậy. Tuy nhiên, danh tiếng của Welch và giá trị cổ phiếu của General Electric dưới thời ông đã làm cho câu nói ấy trở nên một câu thần chú trong kinh doanh, dù rằng rất khó có thể hiểu được nó có ý nghĩa đến mức nào đối với phần lớn các đơn vị không phải là lớn cũng không phải là đơn vị đại chúng.
Thế còn về định nghĩa “tăng thứ hạng” thì sao? Dù rằng người ta sử dụng cụm từ này theo nhiều cách khác nhau và trong những văn cảnh khác nhau, nhưng cụm từ này luôn có mối liên hệ với việc tăng trưởng doanh thu đáng kể (lượng hàng hóa bán ra) và cả nguyên tố về mặt quản lý. Điều đó có tức là chúng ta bước lên một thứ hạng mới khi mà chúng ta có thể đáp ứng được những yêu cầu đặt ra trong việc điều hành một đơn vị lớn hơn rất nhiều. Bởi vì thứ hạng cao hơn cũng có tức là tốt hơn. Đối với các đơn vị đại chúng, điều này có thể đúng cũng có thể không, nhưng đối với phần lớn các đơn vị tư nhân thì rõ ràng nó không thích hợp.
Tuy nhiên, điều gây tranh cãi ở đây chính là vai trò của các cổ đông. Đối với các đơn vị cổ phần, điều này rất rõ ràng, bởi vì những đơn vị này có nghĩa vụ phải nỗ lực tạo ra lợi nhuận tài chính cao nhất có thể cho cổ đông, cả về mặt pháp lý lẫn đạo đức. Đây chính là cam kết. Nếu chúng ta sử dụng tiền tài ai đó thì bù lại, ta phải cho họ thứ mà họ muốn, và đối với những người mua cổ phiếu thì thứ mà họ mong chờ là một khoản lời khá khẩm cho sự đầu tư của mình. Mối quan hệ này có vẻ rất rõ ràng, logic, do đó, chúng ta thường nghĩ rằng mọi doanh nghiệp phải hoạt động giống nhau. Tuy nhiên, giả thuyết này đã bỏ sót một sự thực vốn cũng rõ ràng không kém. Đó là điều gì quyết định lợi ích của các cổ đông và những ai sẽ là cổ đông. Những cổ đông làm chủ các doanh nghiệp được nói đến trong cuốn sách này còn có những mối quan hoài khác, những hướng ưu tiên phi tài chính khác bên cạnh mục tiêu tài chính cá nhân. Không phải vì họ không muốn kiếm được nhiều lợi nhuận từ các khoản đầu tư của mình mà vì đó không phải là mục tiêu duy nhất, ưu tiên hàng đầu của họ. Những người này còn quan hoài đến việc làm tốt trong lĩnh vực của mình, tạo ra một môi trường làm việc tuyệt vời, cung cấp dịch vụ tốt cho khách hàng, duy trì mối quan hệ khắn khít với nhà cung cấp, đóng góp hăng hái cho cộng đồng họ đang sống và làm việc, và tìm ra lối sống thật tốt cho mình. Hơn nữa, họ đã học được một điều, để thành công trong tất cả các lĩnh vực trên, họ phải đứng ở vị trí người làm chủ và điều hành đơn vị. Đối với một đôi trường hợp, họ phải đặt ra những giới hạn cho quy mô và tốc độ phát triển của chính mình. Sự giàu có mà họ có được, dẫu có lớn đi chăng nữa, cũng chỉ là một phần của sự thành đạt trong những lĩnh vực khác này.
Tôi gọi họ là những gã đồ sộ bé nhỏ.
Vậy những đơn vị này đã được xác nhận như thế nào? Và bằng cách nào họ đã thành công? Tất nhiên, câu giải đáp còn phụ thuộc một phần vào tiêu chuẩn mà các bạn thường dùng để đánh giá sự thành công. Khi Jim Collins cùng các cộng sự thành lập đơn vị, họ đã tính đến cả tiêu chí Tốt và hơn thế nữa, họ đã có những tiêu chuẩn rất khách quan và chính xác nhờ vào việc hạn chế những yêu cầu đối với các đơn vị công khai. Collins kiếm tìm các đơn vị đã trải qua thời đoạn chuyển giao − thời đoạn cho phép họ phân phối những khoản lợi nhuận lớn về tài chính cho các cổ đông sau khi phát sinh lợi nhuận trong nhiều năm hoạt động. Tất cả những thông tin mà ông cần để đánh giá cũng như để so sánh các đơn vị với nhau là liệu họ có được xã hội xác nhận hay không.
Khi Collins và Jerry Porras tiến hành nghiên cứu cho cuốn sách Build to last (Xây dựng để trường tồn), họ đã sử dụng một cách thức có vẻ không khách quan cho lắm nhưng lại rất đáng tin cậy, đó là chọn ra những đơn vị mà họ định so sánh. Họ tiến hành thăm dò ý kiến của các giám đốc điều hành thuộc 500 đơn vị trong lĩnh vực công nghiệp, 500 đơn vị dịch vụ, 500 đơn vị tư nhân và 100 đơn vị cổ phần. Các giám đốc điều hành những đơn vị này cũng được yêu cầu đề cử 5 đơn vị mà theo họ là “có triển vọng”. Không có gì đáng ngạc nhiên khi tất cả 18 đơn vị được chọn ra đều là những đơn vị đại chúng, có quy mô lớn và tiếng tăm mà trong nhiều thập kỷ qua các phương tiện truyền thông thương nghiệp đã tìm hiểu và tốn không ít giấy mực.
Cũng phải nói thêm rằng tôi không có ý định lấy ví dụ từ sách này hay sách kia. Các đơn vị này đều là những đơn vị có tầm cỡ, với tầm nhìn xa và những bài học lớn về giá trị con người dưới bất kỳ hình thức kinh doanh nào, đại chúng hay cá nhân đều như nhau. Tuy nhiên, cách thức nghiên cứu của Collins và các cộng sự nhấn mạnh vào những thách thức mà bất kỳ ai cũng phải đối mặt khi lựa chọn loại hình đơn vị tư nhân quy mô hẹp.
Ngay từ khi mới khởi đầu, không có một thước đo về tài chính nào là đáng tin cậy. Một trong những lợi ích của các đơn vị tư nhân là bạn sẽ không phải chia sẻ khoản tiền tài mình với những người không liên quan, ngoại trừ viên chức thuế, chủ nhà băng và các đối tác đầu tư. Rất nhiều chủ sở hữu các đơn vị tư nhân muốn giữ kín những khoản tài chính tín dụng của họ. Chỉ một phần nhỏ được kê khai, thậm chí rất ít đơn vị công khai những khoản tài chính này. Hơn nữa, các đơn vị tư nhân hoạt động theo mô hình tổng đơn vị nhiều hơn là theo hình thức đơn vị đại chúng và cũng linh động hơn trong trong việc quyết định xem họ sẽ làm gì với khoản tiền tài mình. Điều này cũng phụ thuộc vào loại hình cụ thể mà họ chọn và như vậy họ còn nhận được nhiều sự ưu đãi khác nhau về thuế. Nếu bạn nộp thuế ở chừng độ của một tổng đơn vị ví dụ như tổng đơn vị C nào đó, chắc chắn bạn sẽ phải có kế hoạch chi tiêu khác với cách chi tiêu của một đối tác là đơn vị S khi đơn vị này chỉ phải trả thuế ở mức đơn lẻ. Ngay cả khi bạn có đầy đủ thông tin chăng nữa thì việc chỉ dựa vào những dữ liệu tài chính để so sánh đơn vị tư nhân này với đơn vị tư nhân kia cũng rất khó, nếu không muốn nói là chẳng thể.
Ngoài vấn đề về các con số, chúng ta còn có những vấn đề về cách nhìn nhận. Vấn đề lớn nhất của các đơn vị tư nhân là chưa có cái nhìn đại quát. Thậm chí rất ít ai biết được cuộc cạnh tranh để giành sự lưu ý của mọi người ngoài một lượng khách hàng tương đối ít thường xuyên giữ giao thông với họ. Một đơn vị tư nhân sẽ được lưu ý hơn nếu họ giành được một giải thưởng, đạt được một dấu ấn đáng lưu ý, đưa ra một cải tiến quan yếu hoặc đầu tư vào lăng xê. Nhưng rất ít đơn vị đạt được thành công như các tập đoàn 3M, Mc Donald’s, American Express, Wal-Mart, Walt Disney hoặc bất kỳ một đơn vị đại chúng nào mà tăm tiếng của nó đã đi vào từng gia đình. Khi các đơn vị tư nhân nhận được sự lưu ý của người tiêu dùng thì cái thu hút được sự lưu ý này luôn là các sản phẩm hoặc dịch vụ của đơn vị đó, chứ không phải là bản thân các công tác kinh doanh. Do vậy, việc tiến hành bầu chọn ra một đơn vị thành đạt nhất là việc làm không hiệu quả. Những người chỉ đơn thuần quan sát từ bên ngoài chẳng thể đủ thông tin để đánh giá.
Vậy điều gì đã khiến tôi viết về những đơn vị này? Trong việc lựa chọn, tôi không làm theo cách của Collin và các cộng sự của ông khi họ lựa chọn mô hình kinh doanh để viết sách. Tôi có cách lựa chọn riêng, khởi đầu chỉ với một định nghĩa và một mớ các câu hỏi. Tôi biết mình đang kiếm tìm những đơn vị tư nhân dị biệt, sẵn sàng không chạy theo lợi nhuận để đạt được thành công. Sự dị biệt tôi muốn nói đến là các đơn vị có một tầm nhìn độc đáo, một phương thức hoạt động khác hẳn so với các đơn vị khác cùng lĩnh vực. Tôi cũng đã từng quản lý những đơn vị như vậy trong hai mươi năm làm việc của mình. Khi tôi là biên tập viên trị sự cho một tập san tôi đã nghi ngờ rằng liệu tôi có đủ chăm chỉ không và liệu tôi có thể tìm được một đơn vị nào khác giống như thế không. Tôi không có ý kiến gì về việc có bao lăm đơn vị như thế và những đơn vị đó đã khó khăn như thế nào để được xác nhận, trụ sở của chúng ở đâu, thậm chí là chúng có những đặc điểm gì chung và đặc điểm gì dị biệt. Tôi có trực quan và lòng quyết tâm của bản thân như một phép phân tách hoàn toàn có lý trí. Tôi cũng hy vọng những người mà tôi trò chuyện sẽ giúp tôi xác định rõ tôi đang kiếm tìm cái gì.
Tôi đã khởi đầu bằng việc mở rộng màng lưới hoạt động của mình tới mức có thể. Tôi đề xuất bất cứ ai mà tôi biết nhận xét về đơn vị của tôi. Tôi kiếm tìm trên Internet. Tôi kiếm tìm trên những tờ báo và tập san, lục lọi dữ liệu về những doanh nghiệp có uy tín. Khi danh sách những ứng cử viên tiềm năng đã tăng lên, tôi tiến hành bước chắt lọc ban sơ để tìm ra những đơn vị nào ăn nhập với những tiêu chí mà tôi đặt ra. Sau đó, tôi tiến hành nghiên cứu để thu hẹp danh sách này lại và tập trung vào vấn đề là nguyên tố nào làm cho những đơn vị này trở nên dị biệt.
Những quyết định của tôi chẳng thể tránh khỏi có nguyên tố chủ quan, nên để hạn chế tối đa tính chủ quan của mình, tôi đã bổ sung những tiêu chí sau:
Kế đến là vấn đề về quy mô. “Lớn” hay “nhỏ” hẳn nhiên chỉ là những thuật ngữ mang nặng tính chủ quan và tương đối. Đối với quy mô kinh tế hộ gia đình với doanh thu hàng năm đạt mức 200.000 đô-la hay một đơn vị chỉ có 6 viên chức với doanh thu hàng năm đạt mức 2 triệu đô-la là rất cao. Thông thường, các phương tiện truyền thông đại chúng có xu hướng đánh giá doanh nghiệp có doanh thu hàng năm dưới 300 triệu đô-la là doanh nghiệp nhỏ. (Tôi nhớ có một bài báo đăng trên tuần báo Business Week đã nói tới một đơn vị đạt mức doanh thu hàng năm là 104 triệu đô-la và gọi đây là một đơn vị nhỏ). Vì vậy, tôi cần phải quyết định tiêu chí đánh giá về quy mô. Khi tiến hành, tôi nhận ra rằng do mục tiêu của mình, tiêu chí đánh giá không phải là doanh thu hàng năm mà là số lượng viên chức trong đơn vị. Tổ chức mà tôi đang kiếm tìm vận hành trên cái mà bạn gọi là quy mô nhân lực. Quy mô doanh nghiệp tạo khả năng cho viên chức làm quen với tất cả mọi người trong đơn vị, tạo điều kiện cho các giám đốc điều hành gặp gỡ viên chức, còn viên chức cảm thấy thân thiết hơn với đơn vị. Rõ ràng là quy mô doanh nghiệp đóng vai trò quan yếu trong phương hướng kinh doanh của họ.
Tiêu chí đánh giá dựa trên quy mô rõ ràng đã loại bỏ một số đơn vị tư nhân ra khỏi danh sách các đơn vị hàng đầu thường niên của tập san Forbes. Tất cả các đơn vị này đều có doanh thu hàng năm trên một tỷ đô-la. Tuy nhiên, tôi không biết chắc về số viên chức tối đa một đơn vị có thể có và điều đó có được coi là quy mô nhân lực hay không. Tôi cũng cần phải cân nhắc liệu một số đơn vị có đủ lớn để được tính vào tiêu chí này không. Cuối cùng tôi đã quyết định tính đến một đôi đơn vị hàng đầu và xem họ có thể dạy chúng ta điều gì.
Ngoài những đơn vị quá lớn hay quá nhỏ, tiêu chí của tôi còn xác lập những dạng doanh nghiệp khác. Ví dụ những doanh nghiệp này có phương thức kinh doanh hiệu quả, mục tiêu cơ bản của họ là tạo cho khách hàng một không khí thoải mái thường không hề có trong kinh doanh. Những đơn vị này chẳng thể phát triển vượt quá một quy mô nhất định nếu chỉ để tồn tại. Điều này không có nhiều chọn lựa. Tôi cũng đến một số đơn vị độc quyền họ có cái nhìn của một người khác và những ông chủ đang lựa chọn cách thức khác để phát triển. Doanh nghiệp nhỏ kinh doanh mặt hàng thời trang đắt tiền nhắm vào thị trường cao cấp dành cho khách hàng khó tính khó nết, cầu kỳ không hề bị suy giảm. Đối với những doanh nghiệp này, hoạt động ở quy mô nhỏ đóng vai trò trọng tâm trong chiến lược kinh doanh. Họ có phương thức quản lý bằng thời kì nhưng đó không phải là điều tôi kiếm tìm. Tôi cần đơn vị vượt trên sự khôn ngoan thông thường và đi trên con đường riêng của mình. Cuối cùng tôi loại bỏ đơn vị kiểu gia đình truyền thống. Đây là những doanh nghiệp nhỏ hoạt động với mục tiêu tạo ra sức ăn việc làm cho các thành viên trong gia đình. Dù rằng đây là hình thức kinh doanh tuyệt vời nhưng không hề độc đáo như tôi mong chờ.
Tuy tồn tại những hạn chế này nhưng tôi sớm nhận ra có rất nhiều đơn vị khác cũng đáp ứng được tiêu chí của tôi, nhiều hơn những gì mà tôi có thể đề cập trong phạm vi một cuốn sách. Càng nghiên cứu tôi càng nhận ra chúng ngự trị ở mọi vùng và hiện hữu ở mọi ngành (những doanh nghiệp ở một số ngành buộc phải đạt đến một quy mô phát triển nhất định để nâng cao tính cạnh tranh). Đó là những đại lý bán lẻ, nhà buôn nhỏ, nhà sinh sản, các đơn vị dịch vụ, đơn vị chuyên cung cấp dịch vụ và doanh nghiệp kinh doanh hàng tay chân. Một số đơn vị đã bước đầu thành công, thường là vì họ có sản phẩm tiêu thụ nổi tiếng. Những đơn vị hợp tác hay cạnh tranh với các đơn vị khác hồ hết đều trở nên nổi tiếng.
Khi tiến hành lựa chọn trong số các đơn vị sẵn có, tôi chọn những đơn vị mà tôi nghĩ sẽ cung cấp cho mình tri thức sâu rộng nhất về vấn đề muốn viết. Một mặt, tôi đang kiếm tìm sự đa dạng về quy mô, thời kì hoạt động, vị trí và loại hình doanh nghiệp; mặt khác, tôi cũng kiếm tìm những đơn vị được lãnh đạo bởi người biết tạo lập sự tự do. Họ có được tự do vì họ quyết định giữ vững tính cá nhân trong kinh doanh và điều hành đơn vị trong phạm vi nhỏ cũng như hạn chế tăng trưởng. Đây mới là thành công thật sự. Khi đơn vị của bạn đạt tốc độ tăng trưởng tối đa hoặc huy động được nguồn vốn lớn từ bên ngoài hay khi bạn tiến hành cổ phần hóa, bạn có rất ít tự do. Trên cương vị đứng đầu đơn vị đại chúng và đơn vị liên doanh, bạn phải chịu trách nhiệm trước các cổ đông và luôn hướng tới lợi ích của họ. Với cương vị lãnh đạo một đơn vị có tốc độ tăng trưởng nhanh, bạn là một nô lệ của kinh doanh vì đòi hỏi trong kinh doanh là bất tận. Vì khi đó, bạn liên tục phải thuê nhân lực, bán sản phẩm, tập huấn, thương thảo, điều hành, nịnh nọt, xoa dịu, cảnh báo, kêu gọi, thuyết phục…
Trong khi kinh nghiệm có thể làm bạn hưng phấn, bạn có rất ít thời kì dành cho những mối quan hoài khác, lại càng không dành thời kì để nghĩ về điều mà bạn thật sự muốn làm cho công tác và cuộc sống của chính bạn. Những ai lựa chọn cách kinh doanh của riêng mình, quản lý đơn vị trong quy mô hẹp và đặt các mục tiêu khác trên cả phát triển doanh nghiệp sẽ nhận lại được hai điều: quyền điều hành và thời kì. Sự kết hợp giữa tự do và đồng đẳng hay chính xác hơn, thời cơ cho tự do. Tôi muốn kiếm tìm những người sử dụng nó sáng tạo nhất.
Cuối cùng, tôi đã chọn ra mười bốn doanh nghiệp điển hình nhất. Nhỏ nhất là Selima Inc, một đơn vị thiết kế và tạo mẫu thời trang chỉ có hai viên chức bên bờ biển Miami. Tổ chức này đã hoạt động được gần 60 năm. Lớn nhất là Tập đoàn O.C.Tanner Co., một đơn vị ở thành phố Salt Lake đã có 79 năm tuổi với khoảng 200 nhân lực và doanh thu hàng năm đạt mức 350 triệu đô-la. Tổ chức này giúp khách hàng xây dựng chương trình ghi nhận thành tích cá nhân xuất sắc và đặt ra cơ cấu giải thưởng cho chương trình này. Đồng thời, đơn vị còn sinh sản các huy chương vàng, bạc, đồng cho Thế vận hội mùa đông 2002. Mười bốn doanh nghiệp khác là:
- • Tổ chức bia Anchor, thành phố San Francisco, tiền thân là nhà máy bia Mỹ.
- • Tập đoàn CitiStorage Inc., Brooklin, bang New York, doanh nghiệp kinh doanh đĩa hát tư nhân đầu tiên ở Mỹ.
- • Tập đoàn Clif Bar, ở Berkeley, bang Canifornia, nhà sản xuất thanh tăng lực có cội nguồn từ năng lượng tự nhiên và hữu cơ, và thực phẩm giàu dinh dưỡng hàng đầu.
- • ECCO, Boise, bang Idaho, nhà sản xuất hàng đầu về còi báo động và đèn báo hiệu vàng hổ phách cho các phương tiện lưu thông.
- • Hammerhead Production, thành phố Studio, bang Canifornia, nhà cung cấp kỹ xảo vi tính cho ngành công nghiệp phim ảnh.
- • Tập đoàn O.C Tanner Co., thành phố Salt Lake, bang Utah, cung cấp dịch vụ giải thưởng ghi nhận nhân lực xuất sắc.
- • Reell Precision Manufacturing, thành phố St. Paul, bang Minnesota, chuyên thiết kế và sản xuất sản phẩm điều khiển chuyển động, ví dụ bản lề của vỏ laptop.
- • Rhythm&Hues Studios, thành phố Los Angeles, hoạt hình nhân vật vi tính và hiệu ứng thị giác, đã giành giải thưởng của Viện Hàn Lâm cho tác phẩm Babe.
- • Hãng sản xuất băng đĩa nổi tiếng Rightnous Babe Records, Buffalo, bang New York do ca sĩ kiêm nhạc sĩ Ani DiFranco sáng lập.
- • Tập đoàn Selima, Miami Beach bang Flodia, chuyên thiết kế và tạo mẫu cho khách hàng chuyên biệt.
- • Tập đoàn Goltz, Chicago, bang Illinois, bao gồm Artist’s Frame Service, có nhẽ là doanh nghiệp tư nhân nổi tiếng nhất.
- • Tập đoàn Union Square Hospitality, thành phố New York, bang New York, công ty kinh doanh nhà hàng của ông chủ danh tiếng Danny Meyer.
- • Tập đoàn xây dựng W.L Bulter, thành phố Redwoo, bang California, chuyên thầu các dự án kinh tế lớn.
- • Zingerman’s Community of Businesses, Ann Arbor, bang Michigan, bao gồm Zingerman’s Delientessen nổi tiếng thế giới và bẩy công ty thực phẩm khác.
Mời các bạn tải đọc sách Những Người Khổng Lồ Bé Nhỏ của tác giả Bo Burling Gham.