Cuốn sách “Phật ở tầng áp mái” là một tác phẩm đầy cảm xúc và sâu sắc, mô tả cuộc sống đầy gian nan và thử thách của những người phụ nữ Nhật di cư sang Mỹ vào đầu thế kỷ XX. Tác phẩm này khám phá những khát vọng và hy vọng của những cô gái Nhật trước khi rời quê hương, nhưng cũng phản ánh thực tế phũ phàng và khó khăn mà họ phải đối mặt sau khi đặt chân đến đất nước mới.
Cuốn sách minh họa rõ ràng sự hối tiếc và thất vọng của những phụ nữ khi họ nhận ra rằng cuộc sống ở Mỹ không giống như những gì họ đã mơ ước. Họ phải đối mặt với sự bạo hành trong hôn nhân và không có con đường trở về quê hương. Tuy nhiên, qua mọi gian khổ và thử thách, những người phụ nữ này vẫn tỏ ra mạnh mẽ và kiên cường. Họ không chỉ phải đối mặt với sự bạo hành từ chồng mà còn phải chịu đựng sự coi thường từ con cái.
Tác phẩm lồng ghép những câu chuyện cá nhân vào bối cảnh lịch sử rất tốt, từ đó tạo nên một bức tranh toàn diện về cuộc sống của những người phụ nữ Nhật di cư vào thời điểm đó. Mặc dù truyện mang lại nhiều nỗi đau và nước mắt, nhưng cũng khám phá sức mạnh và lòng kiên nhẫn của con người khi đối mặt với khó khăn.
Cuối cùng, “Phật ở tầng áp mái” không chỉ là một câu chuyện buồn về những mất mát và đau khổ, mà còn là một sự tôn vinh cho lòng bền bỉ và lòng yêu thương của những người phụ nữ, đồng thời là một bài học về sức mạnh và ý chí của con người khi đối mặt với số phận đầy thách thức.
Mời các bạn đón đọc cuốn sách Phật Ở Tầng Áp Mái của tác giả Juile Otsuka
—-
Người Nhật, hãy đến nhé!
Ởtrên tàu chúng tôi hầu hết đều là gái trinh. Chúng tôi đều có mái tóc đen dài, đôi chân to, đầy đặn và không được cao ráo lắm. Vài người trong số chúng tôi khi còn nhỏ không ăn gì ngoài cháo nấu suông, có đôi chân hơi vòng kiềng, và một số người chỉ mới mười bốn tuổi, vẫn còn là những cô bé. Vài người là dân thành thị, mặc đẹp, nhưng đa số chúng tôi đến từ các vùng nông thôn và ở trên tàu chúng tôi đều mặc những chiếc áo kimono cũ kỹ mà chúng tôi đã mặc trong nhiều năm – những chiếc kimono chúng tôi mặc lại của chị gái mình và là những chiếc áo đã bị vá đôi chỗ, được nhuộm đi nhuộm lại nhiều lần. Vài người trong chúng tôi đến từ những vùng núi cao, chưa từng nhìn thấy biển bao giờ, ngoại trừ biển trong những bức tranh, và có những người là con của những ngư dân cả đời vật lộn với biển. Có lẽ vài người trong chúng tôi có anh trai hoặc cha đi biển mãi mãi không trở về, hoặc có người yêu hoặc người thân đã lội xuống biển vào một buổi sáng buồn và bơi ra xa, xa mãi và giờ đây đến lượt chúng tôi lênh đênh trên biển.
Ở trên tàu, điều đầu tiên chúng tôi làm – trước khi xác định được mình thích ai và không thích ai, trước khi kể cho nhau nghe mình đến từ hòn đảo nào, và tại sao chúng tôi lại ra đi, thậm chí trước khi chúng tôi biết tên của nhau – là đem so những bức ảnh chụp chồng của chúng tôi. Chồng của chúng tôi là những người đàn ông trẻ mắt đen, tóc rậm, da mịn màng, không hề có vết nám. Họ là những người đàn ông có khuôn cằm vuông vức toát lên vẻ cương nghị và mạnh mẽ. Dáng dấp của họ dễ coi. Mũi của họ thẳng và cao. Họ trông giống như những người anh, những người cha của chúng tôi ở nhà, chỉ có điều họ mặc đẹp hơn, trông thật bảnh bao và lịch sự trong những chiếc áo khoác màu xám và những bộ vét ba mảnh may kiểu Tây. Vài người trong số họ chụp ảnh trong lúc đang đứng trên lối đi dạo ở mặt trước của một ngôi nhà gỗ có khung hình chữ A với hàng rào được sơn trắng và bãi cỏ được xén tỉa kỹ càng, và một số người đang đứng bên cạnh những chiếc xe Ford Model T. Vài người đang ngồi trong văn phòng trên những chiếc ghế có lưng tựa cao, đan những ngón tay vào nhau, nhìn thẳng vào ống kính với vẻ tự tin như thể họ đã sẵn sàng gánh vác cả thế giới. Tất cả họ đều đã hứa sẽ có mặt ở đó – San Francisco, đợi chúng tôi khi tàu cập cảng.
Ở trên tàu chúng tôi băn khoăn một điều: Liệu chúng tôi có thích họ không? Chúng tôi có yêu họ không? Khi chúng tôi nhìn thấy họ trên bến cảng chúng tôi có nhận ra họ là người trong ảnh hay không?
Ở trên tàu chúng tôi ngủ ở khoang hạng bét, bẩn thỉu và tối tăm. Giường của chúng tôi là những cái giá gác bằng kim loại chật hẹp được xếp theo kiểu giường tầng, chiếc nọ ở trên chiếc kia, còn đệm của chúng tôi thì cứng, mỏng, loang lổ những vết ố bẩn của những cuộc hành trình khác, những phận người khác. Gối của chúng tôi là những chiếc gối được nhồi bằng rơm khô. Những mẩu thức ăn vương vãi giữa những chiếc giường và sàn tàu thì ẩm ướt và khá trơn. Có một ô cửa sổ ở mạn tàu và vào buổi tối, sau khi cái cửa sập ấy đã đóng lại, trong bóng tối khoang tàu hạng bét của chúng tôi đầy những tiếng thì thầm. Làm chuyện đó có đau không? Những tấm thân trằn trọc bên dưới những tấm chăn. Biển dập dềnh. Không khí ẩm thật ngột ngạt. Ban đêm chúng tôi mơ về những người chồng. Chúng tôi mơ về những đôi guốc mới, những súc lụa màu chàm và mơ về cuộc sống mới, về một ngày của mình ở trong một ngôi nhà có ống khói. Chúng tôi mơ mình trở nên xinh xắn dễ thương và cao ráo. Chúng tôi mơ mình được trở lại những cánh đồng lúa, nơi mà chúng tôi thực sự đã muốn trốn khỏi. Những giấc mơ về cánh đồng luôn là những cơn ác mộng. Chúng tôi mơ về những người chị xinh đẹp hơn, lớn hơn mình, những người đã bị cha chúng tôi bán đi làm kỹ nữ để những thành viên còn lại của gia đình có cái ăn, và khi chúng tôi tỉnh giấc chúng tôi thở hổn hển: Trong một giây mình đã nghĩ mình là chị ấy.
Trong vài ngày đầu tiên ở trên tàu chúng tôi bị say sóng và không thể tiêu hóa nổi thức ăn, phải lết ra lan can tàu hết lần này đến lần khác để nôn. Vài người trong chúng tôi chóng mặt đến nỗi không thể bước nổi, cứ nằm bẹp trên giường trong tình trạng mê man, không thể nhớ nổi tên mình, không buồn nhắc đến tên của người chồng tương lai. Hãy nhắc tôi thêm một lần nữa để tôi nhớ, tôi là bà… bà gì nhỉ? Vài người trong chúng tôi vừa ôm bụng vừa thốt ra những lời cầu khấn thần Kannon, nữ thần của lòng nhân từ – Nữ thần ơi, Người đang ở đâu? – trong khi những người khác thích ghìm sự tức giận trong im lặng. Và thường thì, vào nửa dêm, chúng tôi bị những cơn sóng cồn làm cho xóc nảy người đến mức phải tỉnh giấc và trong những giây đầu tiên dứt khỏi giấc ngủ chúng tôi ngơ ngác không biết mình đang ở đâu, không biết tại sao giường của chúng tôi lại không ngừng rung lắc, không biết tại sao tim chúng tôi lại đập loạn xạ. Động đất là ý nghĩ đầu tiên xuất hiện trong đầu chúng tôi. Chúng tôi đưa tay tìm mẹ, người mà chúng tôi đã ngủ trong vòng tay cho đến tận buổi sáng chúng tôi rời nhà ra đi. Bây giờ mẹ của chúng tôi đang ngủ chăng? Họ có đang mơ không? Họ có nghĩ đến chúng tôi ngày cũng như đêm không? Hay họ vẫn đang lầm lũi bước đi sau cha của chúng tôi ba bước trên đường, ôm những gói, những bọc trong khi những người cha cứ nhàn nhã đi không, chẳng phải mang vác thứ gì? Họ có thầm ghen tị với chúng tôi vì chúng tôi đã lên tàu đi xa hay không? Chẳng phải mẹ đã cho con tất cả sao? Liệu mẹ của chúng tôi có nhớ đem phơi những chiếc áo kimono cũ của chúng tôi không? Họ có nhớ cho mèo ăn không? Liệu các bà mẹ có chắc rằng họ đã nói cho chúng tôi tất cả những điều chúng tôi cần phải biết không? Phải nâng tách trà bằng cả hai tay, phải tránh tiếp xúc trực tiếp với ánh nắng mặt trời, đừng bao giờ nói nhiều hơn mức cần thiết, mẹ đã dặn chúng tôi như thế.
Hầu hết chúng tôi ở trên tàu đều được dạy bảo và căn dặn kỹ lưỡng, và đều chắc chắn rằng mình sẽ trở thành một người vợ tốt. Chúng tôi biết nấu ăn và khâu vá. Chúng tôi biết pha trà và cắm hoa, biết ngồi yên trên đôi chân to của mình trong nhiều giờ, biết im lặng tuyệt đối. Một cô gái phải để mình lẫn vào với căn phòng: cô ta có mặt mà không cần phải xuất hiện để chứng tỏ mình đang ở đó. Chúng tôi biết cách ứng xử trong đám tang, biết viết những bài thơ ngắn u buồn về sự ra đi của mùa thu, những bài thơ thuộc một thể loại thơ mà mỗi bài chỉ có đúng mười bảy âm tiết. Chúng tôi biết nhổ cỏ, chẻ củi, múc nước giếng, và một người trong chúng tôi – con gái của một người xay xát gạo – có thể cuốc bộ hai dặm tới thị trấn với bao gạo tám mươi cân[1] trên lưng mà không thấm mệt. Tất cả là nhờ cách bạn thở. Hầu hết chúng tôi đều có thái độ tốt, cực kỳ lịch thiệp, trừ khi chúng tôi nổi điên và nói tục như thủy thủ. Hầu hết chúng tôi đều nói năng như những tiểu thư trong phần lớn thời gian, bằng giọng nói thanh thoát, trong trẻo, đều giả vờ rằng mình ngây thơ hơn vốn có, và bất cứ khi nào chúng tôi đi qua chỗ các chàng thủy thủ, chúng tôi đều đảm bảo rằng mình bước những bước nhỏ, yểu điệu với những ngón chân khép vào theo kiểu đi đứng đoan trang. Bởi vì đã nhiều lần mẹ của chúng tôi nói với chúng tôi: Hãy bước đi như người thành phố, đừng đi như người nhà quê!
Ở trên tàu, đêm đêm chúng tôi chen chúc nhau trên những chiếc giường tầng và thức nhiều giờ bàn tán về cái lục địa lạ lẫm mà chúng tôi sắp đặt chân tới. Người ta nói dân ở lục địa ấy không ăn gì ngoài thịt và người họ đầy lông (hầu hết chúng tôi là người theo đạo Phật, không ăn thịt, và chỉ có lông ở những chỗ thích hợp mà thôi). Người ta nói cây ở đó to lắm. Những cánh đồng ở đó rộng mênh mông. Phụ nữ ở đó thích nói to và rất cao – chúng tôi nghe nói phụ nữ ở đó cao hơn người đàn ông cao nhất ở xứ chúng tôi một cái đầu. Ngôn ngữ ở đó khó học hơn ngôn ngữ của chúng tôi gấp mười lần và các phong tục ở đó lạ lùng đến mức không thể hiểu nổi. Những cuốn sách ở đó được đọc ngược và ở đó người ta sử dụng xà phòng để tắm. Người ở đó hỉ mũi vào những mảnh vải bẩn, hỉ mũi xong lại nhét thứ mà họ vừa dùng để lau mũi vào túi quần để rồi sau đó lại lấy ra lau tiếp, hết lần này đến lần khác. Ở đó tương phản với màu trắng không phải là màu đỏ mà là màu đen. Chúng tôi tự hỏi không biết mình sẽ trở thành gì ở cái xứ lạ lùng đó? Chúng tôi hình dung ra mình – những con người bé nhỏ đến mức bất bình thường chẳng được trang bị gì ngoài những cuốn sách hướng dẫn – đặt chân lên một đất nước của những người khổng lồ. Chúng tôi có bị họ cười cho thối mũi không nhỉ? Chúng tôi có bị họ nhổ bọt không nhỉ? Hay, tệ hơn, người ta sẽ không tỏ ra nghiêm túc với chúng tôi chút nào? Nhưng ngay cả người e ngại nhất trong chúng tôi cũng phải thừa nhận rằng thà lấy một người lạ ở Mỹ còn hơn là sống đến già với một nông dân trong làng. Bởi vì ở Mỹ phụ nữ không phải đụng tay vào việc đồng áng lam lũ, ở đó có thừa lúa gạo và củi đốt cho tất cả mọi người. Và ở Mỹ, dù bạn đi đâu, đàn ông cũng mở cửa, nhấc mũ để chào, nói một cách dõng dạc và lịch sự: “Ưu tiên phụ nữ” và “Xin mời đi trước tôi”.
Vài người trong chúng tôi là dân Kyoto, mảnh khảnh và trắng trẻo, từ khi sinh ra chỉ sống trong những căn phòng tối của khu nhà phụ của những gia đình khá giả. Vài người trong chúng tôi đến từ Nara, mỗi ngày cầu khấn tổ tiên ba lần, thề rằng dù ở trên tàu chúng tôi vẫn nghe văng vẳng bên tai tiếng chuông đền thờ ngân nga. Vài người trong chúng tôi là con nhà nông ở Yamaguchi có cổ tay to, đôi vai rộng, chưa bao giờ đi ngủ sau chín giờ. Vài người trong chúng tôi đến từ một bản nhỏ trên núi cao ở Yamanashi và chỉ mới đây thôi mới có dịp nhìn thấy một đoàn tàu hỏa lần đầu tiên trong đời. Vài người trong chúng tôi là dân Tokyo đã được thấy đủ thứ, nói thứ tiếng Nhật chuẩn và hay, không lẫn với những người của vùng khác. Nhiều người trong chúng tôi đến từ Kagoshima, nói giọng miền Nam đặc sệt đến nỗi những người đến từ Tokyo làm như không hiểu chúng tôi nói gì. Vài người trong chúng tôi đến từ Hokkaido, nơi có tuyết trắng và khí hậu lạnh giá, và chắc chắn trong suốt những năm dài chúng tôi sẽ vẫn còn mơ đến bức tranh phong cảnh trắng xóa quen thuộc của quê hương mình. Vài người trong chúng tôi đến từ Hiroshima, thành phố mà sau đó đã bị nổ tung, và chúng tôi may mắn, may mắn đang ở trên tàu, và tất nhiên khi đó chúng tôi không hề biết điều đó. Người trẻ nhất trong số chúng tôi mới mười hai tuổi, đến từ bờ đông của Hồ Biwa, và thậm chí còn chưa có kinh nguyệt. Cha mẹ em đã bắt em kết hôn với người bên đó để lấy một khoản tiền. Cô gái già nhất trong số chúng tôi đã ba mươi bảy tuổi, đến từ Niigata, người đã dành cả đời mình chăm sóc người cha tàn tật, và khi người cha chết đi đứa con gái lỡ thì vừa vui mừng vừa đau buồn. Tôi biết rằng chỉ khi cha tôi chết đi tôi mới có thể lấy chồng. Một người trong số chúng tôi đến từ Kumamoto, nơi không còn một người đàn ông thích hợp nào để lấy làm chồng – tất cả những người đàn ông chưa vợ đều đã bỏ làng đi tìm việc ở Manchiria từ năm trước – và cảm thấy may mắn vì dù gì mình cũng đã kiếm được một tấm chồng, méo mó có hơn không. Tôi nhìn ảnh của anh ấy một cái và nói với bà mối: “Tôi đồng ý”. Một người trong số chúng tôi đến từ một làng dệt lụa ở Fukushima, đã mất người chồng đầu tiên vì bệnh cúm, mất người chồng thứ hai vì một người phụ nữ trẻ đẹp hơn mình sống ở bên kia đồi, và giờ đây chị sang Mỹ để cưới người chồng thứ ba. Anh ấy khỏe mạnh, không nghiện rượu, không đánh bạc, tôi chỉ cần biết như vậy là đủ. Một người trong chúng tôi từng là gái nhảy ở Nagoya, một cô gái ăn mặc đẹp, có nước da trắng xanh, biết tất cả mọi điều về đàn ông, và cô chính là người mà tối nào chúng tôi cũng vây lấy để hỏi về chuyện ấy. Chuyện đó diễn ra trong bao lâu? Khi làm chuyện đó người ta để đèn hay tắt đèn? Chân để cao hay để thấp? Nhắm mắt hay mở mắt? Nếu đang làm chuyện đó mà tôi không thở được thì làm thế nào? Nếu tôi cảm thấy khát thì sao? Nếu anh ấy quá nặng thì phải làm gì? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu anh ấy quá to? Phải làm gì nếu anh ấy không muốn tôi? “Đàn ông thực ra khá đơn giản”, cô ấy nói. Rồi cô ấy bắt đầu giải thích.
Ở trên tàu thỉnh thoảng chúng tôi thức chong chong suốt nhiều giờ trong bóng tối của khoang tàu lắc lư, ẩm ướt, chất ngất niềm khát khao và nỗi sợ hãi, tự hỏi không biết làm thế nào chúng tôi có thể sống sót được qua ba tuần lênh đênh trên biển.
Ở trên tàu chúng tôi mang theo tất cả những gì mình cần cho cuộc sống mới trong những chiếc rương: Những chiếc áo kimono bằng lụa trắng để mặc trong đêm tân hôn, những chiếc kimono bằng vải bông nhiều màu để mặc ngày thường; những chiếc kimono bằng vải bông một màu để mặc khi chúng tôi luống tuổi, những chiếc bút lông, những thỏi mực đen, những tờ giấy mỏng để chúng tôi viết những lá thư dài gửi về nhà, bức tượng Phật bằng đồng nhỏ xíu, những bức tượng thần cáo làm bằng ngà voi, những con búp bê mà chúng tôi đã ngủ cùng từ thuở lên năm, những chiếc túi đựng đường, những mảnh vải bông chần sặc sỡ, những chiếc quạt giấy, những cuốn sách dành cho người học tiếng Anh, những chiếc khăn lụa in hoa, những viên đá nhẵn thín được nhặt từ con sông chảy qua phía sau nhà của chúng tôi ở Nhật, một lọn tóc của người con trai mà chúng tôi đã từng chạm vào, từng yêu, và đã hứa sẽ viết thư cho, mặc dù chúng tôi biết sẽ chẳng bao giờ chúng tôi làm điều đó, những chiếc gương chúng tôi nhận từ mẹ của mình, người đã nói những lời cuối cùng trước khi tiễn biệt con gái và những lời đó giờ đây vẫn văng vẳng bên tai chúng tôi. Rồi con sẽ thấy: Đàn bà thì yếu đuối, nhưng những người mẹ thì mạnh mẽ.
Ở trên tàu chúng tôi phàn nàn về tất cả mọi thứ. Rệp. Chấy. Chứng mất ngủ. Tiếng phành phạch nhàm chán của động cơ tàu không lúc nào dứt bên tai chúng tôi, thậm chí ngay cả trong giấc mơ chúng tôi cũng nghe thấy âm thanh khó chịu đó. Chúng tôi phàn nàn về mùi hôi thối của nhà xí – những cái hố lớn, hở toang hoác, xả chất thải thẳng xuống biển – và phàn nàn về mùi của cơ thể đang ở độ chín của mình, thứ mùi mà cứ qua ngày lại thêm chua, thêm hăng. Chúng tôi phàn nàn về thái độ khó gần của Kazuko, về thói quen hắng giọng của Chiyo, về cái cách Fusayo luôn miệng ngâm nga bài Bài ca của người hái chè khiến chúng tôi nghe mãi thành ra bực muốn phát điên. Chúng tôi phàn nàn về sự biến mất của những chiếc trâm cài tóc – ai trong chúng tôi là kẻ trộm? – và phàn nàn về những cô gái ở toa hạng nhất, những người không một lần thốt ra lời chào từ bên dưới những chiếc ô lụa che nắng màu tím nhạt khi họ đi qua chúng tôi trên boong tàu. Họ nghĩ mình là ai chứ? Chúng tôi phàn nàn về cái nóng. Về cái lạnh. Về những chiếc chăn len gây ngứa ngáy. Chúng tôi phàn nàn về thói hay phàn nàn của chính mình. Tuy nhiên, từ sâu thẳm trong lòng, hầu hết chúng tôi cảm thấy thực sự rất hạnh phúc, vì chẳng bao lâu nữa chúng tôi sẽ được ở trên đất Mỹ cùng với những người chồng mới của mình, những người đã viết thư cho chúng tôi nhiều lần trong nhiều tháng. Anh đã mua một căn nhà đẹp. Em có thể trồng hoa tulip ở trong vườn. Hoa thủy tiên vàng. Trồng bất cứ hoa gì em thích. Anh có một trang trại. Anh quản lý một khách sạn. Anh là giám đốc của một ngân hàng lớn. Anh đã rời Nhật Bản vài năm trước để bắt đầu công việc kinh doanh của mình và có thể lo cho em chu đáo. Anh cao 179 xen-ti-mét, không mắc bệnh phong hay bệnh phổi và trong gia đình anh không có tiền sử bệnh tâm thần. Anh là người gốc Okayama. Anh là người gốc Hyogo. Anh là người Miyagi. Anh là người Shizuoka. Anh lớn lên ở một ngôi làng gần làng của em và nhiều năm trước anh đã gặp em một lần tại một hội chợ. Anh sẽ gửi tiền để em mua vé tàu sớm nhất có thể.
Ở trên tàu chúng tôi để ảnh của chồng tương lai trong những khung ảnh hình trái tim nhỏ xíu gắn trên dây chuyền đeo cổ. Chúng tôi để ảnh của chồng trong những chiếc ví lụa và trong những hộp đựng trà cũ, trong những chiếc hộp sơn mài màu đỏ và trong những chiếc phong bì màu nâu dày cộp được gửi từ Mỹ sang và đó cũng chính là những chiếc phong bì mà họ đã gửi ảnh sang cho chúng tôi. Chúng tôi để ảnh của chồng trong tay áo kimono, nơi mà chúng tôi chạm vào thường xuyên, chỉ để đảm bảo rằng ảnh vẫn ở đó. Chúng tôi để ảnh của chồng giữa những trang của cuốn Hãy đến đi, người Nhật! và cuốn Sách hướng dẫn dành cho những người đến nước Mỹ, và cuốn Mười cách để làm vui lòng một người đàn ông, những cuốn Kinh Phật đã cũ, và một người trong số chúng tôi, cô gái theo đạo Thiên Chúa, ăn thịt và cầu nguyện trước một vị thần tóc dài khác với những vị thần mà chúng tôi thờ phụng, để ảnh chồng tương lai của cô giữa những trang của một cuốn Kinh thánh có tên là King James. Và khi chúng tôi hỏi cô thích người nào hơn – người đàn ông trong ảnh hay Chúa Jesus – cô mỉm cười một cách bí ẩn và đáp: “Tất nhiên là Ngài chứ”.
Ở trên tàu, vài người trong chúng tôi có những bí mật mà chúng tôi thề sẽ giữ kín không cho chồng biết cho đến hết đời. Có lẽ lý do thực sự khiến chúng tôi lên tàu sang Mỹ là để tìm kiếm người cha đã biệt tăm biệt tích của mình, người đã bỏ gia đình từ nhiều năm trước. Bố tôi đi Woming để làm việc ở mỏ than và chúng tôi không bao giờ nhận được tin tức gì của ông nữa. Hoặc có lẽ chúng tôi bước chân ra đi bỏ lại phía sau một đứa con gái nhỏ, con của một người cha mà ngay đến khuôn mặt chúng tôi cũng không nhớ nổi – một người kể chuyện lang bạt kỳ hồ chỉ dừng chân ở làng của chúng tôi một tuần, hoặc một thày tu khất thực, người đã ở lại trong nhà của chúng tôi một đêm trên đường tới núi Phú Sĩ. Và thậm chí chúng tôi biết cha mẹ của chúng tôi sẽ chăm sóc những đứa con bị bỏ lại ấy tử tế – họ cảnh báo: Nếu mày ở lại cái làng này thì mày sẽ không bao giờ lấy chồng được đâu – chúng tôi vẫn cảm thấy có lỗi vì đã lựa chọn sống vì bản thân mình hơn là vì con, và ở trên tàu đêm nào chúng tôi cũng khóc vì thương con để rồi một buổi sáng chúng tôi thức dậy, lau nước mắt nói: “Khóc thế đủ rồi”, và bắt đầu nghĩ đến những điều khác. Nghĩ mình sẽ mặc chiếc kimono nào khi đặt chân lên đất Mỹ. Nghĩ mình sẽ để tóc kiểu gì. Nghĩ mình sẽ nói gì trong lần đầu tiên gặp chồng. Bởi vì bây giờ chúng tôi đang ở trên tàu nên quá khứ đã lùi về phía sau chúng tôi, lùi mỗi lúc một xa và chúng tôi không còn đường quay về nữa.
Trên tàu chúng tôi không biết rằng cho đến tận lúc nhắm mắt xuôi tay chúng tôi vẫn sẽ không ngừng mơ về đứa con mà mình bỏ lại phía sau, và không biết rằng trong giấc mơ con của chúng tôi luôn là đứa bé ba tuổi như lần cuối cùng chúng tôi nhìn thấy con: một hình hài bé nhỏ trong bộ kimono màu đỏ sẫm ngồi bên bờ ao, say sưa nhìn xác của một con ong nổi lềnh bềnh trên mặt nước.
Ở trên tàu ngày nào cũng như ngày nào chúng tôi đều ăn một loại thức ăn và ngày nào chúng tôi cũng phải hít thở một bầu không khí không thay đổi. Chúng tôi hát đi hát lại những bài hát cũ mèm, cười trước những câu đùa mà chúng tôi đã nghe đi nghe lại nhiều lần và vào buổi sáng khi thời tiết ôn hòa, chúng tôi trèo ra khỏi khoang tàu chật chội đi dạo trên boong tàu trong chiếc kimono mùa hè, kéo lê những chiếc guốc gỗ dưới chân, dừng lại ở chỗ này, chỗ kia một lát, hoặc nhìn đăm đăm ra mặt biển xanh vô tận. Thỉnh thoảng một con cá nhảy bật khỏi mặt nước rơi phịch xuống chỗ chúng tôi đứng, và một người trong số chúng tôi – thường thì chính là con gái của một ngư dân – nhặt con cá lên và quăng nó xuống nước, trả nó trở về với biển khơi. Hoặc có khi cả đàn cá heo không rõ từ đâu bất ngờ xuất hiện nhảy lên nhảy xuống bên mạn tàu nhiều giờ liền. Vào một buổi sáng yên ả, im gió, khi biển phẳng lặng như mặt kính còn bầu trời thì ngời ngợi một màu xanh tươi sáng, cái mình đen bóng mượt của một con cá voi bỗng nhô Iên khỏi mặt nước rồi biến mất khiến chúng tôi bị bất ngờ đến mức quên thở. Cảm giác đó hệt như cảm giác khi bạn nhìn vào mắt của Đức Phật vậy.
Ở trên tàu chúng tôi thường đứng trên boong hàng giờ để gió đùa với những sợi tóc của mình trong khi nhìn những hành khách khác đi qua đi lại. Chúng tôi nhìn những người theo đạo Sikh đội khăn xếp đến từ Punjab, những người rời bỏ quê hương mình để tới Panama. Chúng tôi nhìn những người Nga da trắng, những người đã trốn khỏi đất nước họ vì cuộc cách mạng đang nổ ra ở đó. Chúng tôi nhìn những người lao động Trung Quốc xuất phát từ Hồng Kông và sẽ đến Peru để làm việc trên những cánh đồng trồng bông. Chúng tôi thấy Vua Lee Uwanowich và nhóm Gypsy nổi tiếng của ông, những người sở hữu cả một nông trại gia súc ở Mexico và được cho là nhóm Gypsy giàu nhất thế giới. Chúng tôi thấy một nhóm ba khách du lịch người Đức có nước da rám nắng và một vị mục sư điển trai người Tây Ban Nha, một người Anh hồng hào tươi tắn tên là Charles, người mà trưa nào cũng xuất hiện ở lan can tàu vào lúc ba giờ mười lăm, đi dạo dọc boong tàu vài lượt. Charles là hành khách của khoang hạng nhất, có đôi mắt màu xanh lục và cái mũi khá nhọn, nói tiếng Nhật không chê vào đâu được, là người da trắng đầu tiên mà nhiều người trong số chúng tôi từng nhìn thấy trong đời. Ông là Giáo sư giảng dạy ngoại ngữ tại một trường đại học ở Osaka, lấy vợ người Nhật, đã có một con, đã từng sang Mỹ nhiều lần, và là người thể hiện sự kiên nhẫn vô bờ trước những câu hỏi tưởng chừng như không bao giờ cạn của chúng tôi. Có đúng là người Mỹ rất nặng mùi không? (Charles cười thành tiếng và nói: “Nào, ngửi xem tôi có nặng mùi không nào?” và ông nghiêng người tới gần cho chúng tôi ngửi). Người họ nhiều lông lắm phải không? (“Nhiều lông như tôi đây này”. Charles đáp và vén tay áo lên cho chúng tôi xem cánh tay ông, đôi cánh tay đầy những sợi lông màu nâu sẫm khiến chúng tôi rùng mình). Và có thật là họ mọc lông ở ngực không? (Charles đỏ mặt và nói rằng ông không thể cho chúng tôi xem ngực được, và chúng tôi cũng đỏ mặt, giải thích rằng chúng tôi đâu có yêu cầu ông cho chúng tôi xem ngực). Có phải ở Mỹ vẫn còn những bộ lạc của thổ dân da đỏ lang thang khắp các đồng cỏ không? (Charles nói với chúng tôi rằng thổ dân da đỏ đã được đưa đến những vùng xa xôi, vậy là chúng tôi thở phào nhẹ nhõm). Có thật là phụ nữ ở Mỹ không quỳ trước mặt chồng và không che miệng khi họ cười không? (Charles dõi ánh mắt xa xăm nhìn một con tàu đang di chuyển ở phía chân trời, thở dài và nói: “Thật đáng buồn, quả đúng như vậy”). Có phải đàn ông và phụ nữ ở Mỹ má kề má khiêu vũ thâu đêm không? (Chỉ vào những tối thứ Bảy thôi, Charles giải thích). Nhảy theo kiểu Mỹ khó lắm phải không? (Charles nói các điệu nhảy ở bên ấy dễ thôi, và vào tối sáng trăng hôm sau, trên boong tàu, ông ấy dạy chúng tôi nhảy điệu fox-trot. Chậm, chậm, nhanh, nhanh). Có đúng là trung tâm mua sắm của thành phố San Francisco lớn hơn quận Ginza không? (Tất nhiên rồi, tại sao không). Nhà ở Mỹ to hơn nhà ở Nhật gấp ba lần, có đúng không? (Đúng vậy). Nhà nào ở Mỹ cũng có một cây đàn dương cầm được đặt ở phòng khách phải không? (Charles nói, đúng hơn là cứ hai nhà thì một nhà có đàn dương cầm). Chúng tôi hỏi, ông có nghĩ chúng tôi sẽ hạnh phúc trên đất Mỹ không? (Charles gỡ cặp kính ra, nhìn chúng tôi bằng đôi mắt màu xanh lục dễ thương và nói: “Ồ, có chứ, có chứ”).
Ở trên tàu vài người chúng tôi không thể không trở nên gần gũi với cánh thủ thủy, những người xuất thân từ làng quê giống như chúng tôi, thuộc lời của tất cả những bài hát mà chúng tôi hát, và hết lần này đến lần khác cầu hôn chúng tôi. Chúng em là gái đã có chồng, chúng tôi giải thích như vậy, nhưng vài người trong chúng tôi lại phải lòng họ. Và khi họ ngỏ ý muốn gặp riêng chúng tôi – vào buổi tối ở boong giữa đúng mười giờ mười lăm – chúng tôi nhìn đăm đăm xuống chân mình một lát rồi hít vào thật sâu và nói: “Được”, và đó là một điều nữa mà chúng tôi sẽ không bao giờ kể cho chồng mình biết. Ôi, cái cách anh ấy nhìn mình, sau đó chúng tôi nghĩ thầm. Anh ấy có nụ cười dễ thương thế.
Ở trên tàu một người trong chúng tôi có thai nhưng không biết là mình đã mang thai, và chín tháng sau, khi đứa trẻ chào đời điều đầu tiên cô gái đó chú ý đến là, liệu đứa trẻ giống người chồng mới của mình lắm không. Nó có đôi mắt của anh ấy. Một người trong số chúng tôi nhảy xuống biển sau khi đã qua đêm với một chàng thủy thủ, để lại một mảnh giấy trên gối có ghi mấy chữ: Sau anh ấy, không thể có người đàn ông nào khác nữa. Một người khác phải lòng một nhà truyền giáo của Hội thánh Tin lành Giám Lý mà cô gặp trên boong tàu, và mặc dù người đó van xin cô hãy bỏ chồng để đến với anh khi họ tới Mỹ, cô đã nói với anh rằng cô không thể làm như vậy. “Em phải trung thành với số mệnh của em”, cô nói với người yêu. Nhưng trong suốt phần còn lại của cuộc đời cô luôn tự hỏi, cuộc sống của cô sẽ như thế nào nếu như cô theo nhà truyền đạo đó.
Ở trên tàu vài người trong số chúng tôi hay suy nghĩ ủ ê, thích ở một mình, gần như trong suốt cuộc hành trình, ngày nào cũng như ngày nào chỉ nằm úp mặt trên giường, nghĩ đến tất cả những người đàn ông mình đã bỏ lại phía sau. Con trai của người bán trái cây, người luôn giả bộ không để ý đến chúng tôi, nhưng lại giúi cho chúng tôi những trái quýt khi mẹ của chàng không có mặt ở cửa hàng. Hoặc người đàn ông đã có vợ mà một người trong chúng tôi đã từng đứng đợi trên cầu trong mưa gió, vào lúc đêm khuya trong suốt hai tiếng đồng hồ. Và còn gì nữa nhỉ? Một nụ hôn và một lời hứa: “Ngày mai anh sẽ lại đến”, người đàn ông đó nói. Và mặc dù chúng tôi chưa bao giờ gặp lại người đàn ông đó chúng tôi biết chuyện đó sẽ lặp lại nếu như chúng tôi có cơ hội bởi vì ở bên người ấy tựa như được sống lần đầu tiên trong đời, một phần đời tốt đẹp hơn. Và thường thì khi chúng tôi sắp chìm vào giấc ngủ, chúng tôi nhận ra mình đang nghĩ về cậu con trai nông dân mà trưa nào chúng tôi cũng trò chuyện trên đường từ trường về nhà – cậu con trai khôi ngô ở làng bên, người có đôi bàn tay có thể dỗ được cả những hạt bướng bỉnh nhất nảy mầm trên đồng ruộng – và nghĩ về cái cách mẹ của chúng tôi, người biết tất tuốt mọi chuyện, có thể đọc được ý nghĩ trong đầu chúng tôi, đã nhìn chúng tôi như thể chúng tôi bị điên. Mày muốn bán mặt cho đất bán lưng cho trời trên đồng ruộng cho đến lúc chết ư? (Chúng tôi có lưỡng lự đấy chứ không phải không, và gần như sắp trả lời, vâng, bởi vì chẳng phải chúng tôi luôn mơ trở thành người như mẹ của chúng tôi hay sao? Chẳng phải đó là tất cả những gì chúng tôi đã từng muốn trở thành ư?).
Ở trên tàu mỗi chúng tôi đều phải lựa chọn. Chúng tôi ngủ ở đâu và ai là người đáng tin cậy, ai là người mình nên đối xử tốt, và đối xử tốt với người đó bằng cách nào. Có hay không nên nói điều gì đó với người nằm bên cạnh, người ngáy to hoặc hay nói mê, người có đôi chân hôi hơn chân chúng tôi, người vứt quần áo bẩn bừa bãi trên sàn. Và nếu một cô gái hỏi, trông tớ có xinh không? khi cô ấy để tóc theo một kiểu nào đó – kiểu mái hiên gie ra chẳng hạn, kiểu tóc mà dường như khiến con tàu nổi giận – và với kiểu tóc đó trông cô ấy chẳng xinh chút nào, nó làm đầu cô ấy trông quá to, thì liệu chúng tôi có nên nói sự thật cho cô ấy biết không, hay chúng tôi nói rằng cô ấy trông xinh hơn bao giờ hết? Và liệu chúng tôi có nên phàn nàn về gã đầu bếp người Trung Quốc chỉ biết nấu mỗi một món ăn – món cơm cà ri – món mà ông ta nấu cho chúng tôi ăn hết ngày này qua ngày khác? Nhưng nếu chúng tôi phàn nàn và ông ta bị tống về Trung Quốc và nhiều ngày liền bạn chẳng có hạt cơm nào mà ăn, thì đó chẳng phải là chúng tôi có lỗi hay sao? Và nếu chúng tôi nói thì liệu có ai nghe chúng tôi hay không? Ai thèm quan tâm chứ?
Tất nhiên trên tàu có thuyền trưởng, và người ta nói rằng sáng nào cũng có một cô gái trẻ đẹp đi ra từ cabin của anh ta. Tất nhiên tất cả chúng tôi đều vô cùng muốn biết điều này: Cô gái đó là một người trong số chúng tôi hay là một cô gái ở khoang hạng nhất?
Ở trên tàu, thỉnh thoảng vào ban đêm chúng tôi bò sang giường của nhau và nằm bên cạnh nhau nói đủ mọi chuyện mà chúng tôi nhớ được ở quê nhà: mùi khoai tây nướng thơm ngon vào những buổi sáng mùa thu, những buổi dạo chơi trong rừng trúc, những lần chúng tôi chơi trò bóng đêm và con quỷ trong sân của ngôi đền bỏ hoang, cái ngày cha của chúng tôi đi lấy nước ngoài giếng và không trở về, nhớ rằng từ đó trở đi mẹ của chúng tôi không nhắc đến cha một lần nào nữa. Cứ như thể cha tôi chưa từng có mặt trên đời này. Trong nhiều năm tôi cứ nhìn đăm đăm xuống cái giếng đó. Chúng tôi bàn về những loại kem thoa mặt được ưa chuộng, lợi ích của phấn, kể về cảm nhận của chúng tôi khi lần đầu tiên chúng tôi nhìn thấy ảnh của chồng mình. Anh ấy trông có vẻ là một người đàn ông đứng đắn, vậy nên tôi nghĩ rằng anh ấy là người đủ tốt dành cho tôi. Thỉnh thoảng chúng tôi chợt nhận ra mình tiết lộ những điều mà mình chưa bao giờ kể với người khác, một khi chúng tôi đã bắt đầu nói thì không thể dừng lại được, và đôi khi chúng tôi bỗng nhiên im lặng, nằm quấn lấy nhau cho đến tận lúc bình minh, khi một trong số chúng tôi bất ngờ buông người người kia ra và hỏi: “Chuyện này sẽ kéo dài chứ?” Và đó là một lựa chọn khác mà chúng tôi phải thực hiện. Nếu chúng tôi nói có, thì nó sẽ kéo dài, và chúng tôi lại sang nằm với nhau – nếu không phải là đêm đó, thì đêm tiếp theo hoặc đêm sau nữa – sau đó chúng tôi tự bảo mình rằng bất cứ chuyện gì chúng tôi làm cũng sẽ bị xóa sạch khỏi não khi chúng tôi rời tàu. Và dù sao đó cũng là sự luyện tập tốt để chúng tôi chung sống với chồng.
Ở trên tàu vài người trong chúng tôi chưa quen gần đàn ông, và nếu có một cách nào đó để đi Mỹ mà không phải lấy một ai đó thì chúng tôi chắc chắn sẽ tìm hiểu để nắm bắt.
Ở trên tàu chúng tôi có lẽ không biết rằng lần đầu tiên gặp chồng của mình chúng tôi không biết họ là ai. Chúng tôi không thể biết trước được rằng đám đông những người đàn ông đội mũ len và mặc những chiếc áo khoác màu đen xoàng xĩnh đợi chúng tôi ở bến cảng chẳng giống những người đàn ông điển trai ở trong ảnh chút nào. Chúng tôi đâu ngờ rằng những bức ảnh được gửi sang Nhật cho chúng tôi là ảnh họ chụp từ hai mươi năm trước. Chúng tôi nào có biết rằng những bức thư mà chúng tôi nhận được không phải do chính tay chồng của chúng tôi viết mà là thư được viết bởi những kẻ viết thuê, những kẻ coi việc viết những lời dối trá để chiếm những trái tim yếu mềm là nghề kiếm sống của mình. Chúng tôi không biết rằng lần đầu tiên chúng tôi nghe tên mình được gọi to từ dưới bến cảng, một người trong số chúng tôi đã lấy tay che mắt và quay đi – Tôi muốn về nhà – nhưng những người còn lại trong số chúng tôi chỉ cúi đầu, bước xuống ván cầu tàu, bước ra không gian của ánh ngày vẫn còn ấm. Đây là nước Mỹ, chúng tôi tự bảo mình, không có gì phải lo lắng hết. Và chúng tôi đã nhầm.