Cuốn sách “Quan Hệ Tam Giác Việt Nam, Liên Xô, Trung Quốc Trong Cuộc Kháng Chiến Chống Mỹ (1954 – 1975)” của tác giả Phạm Quang Minh đã phân tích và tổng kết mối quan hệ phức tạp giữa Việt Nam, Liên Xô và Trung Quốc trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam từ năm 1954 đến 1975.
Sau Hiệp định Geneva 1954, miền Bắc Việt Nam giành được độc lập và thống nhất, tuy nhiên miền Nam vẫn chưa được giải phóng khỏi sự chiếm đóng của Mỹ và chính quyền bù nhìn do Mỹ lập nên. Để tiếp tục cuộc kháng chiến giải phóng miền Nam, Việt Nam cần sự hỗ trợ về quân sự, chính trị và kinh tế từ các đồng minh. Trong bối cảnh đó, Liên Xô và Trung Quốc đóng vai trò hết sức quan trọng đối với Việt Nam.
Tuy nhiên, quan hệ giữa hai nước cộng sản lớn Liên Xô và Trung Quốc lúc bấy giờ cũng đang trải qua nhiều biến động phức tạp. Sau khi Stalin qua đời năm 1953, chính sách đối ngoại của Liên Xô dần có những thay đổi theo hướng “đồng hành với các nước đang phát triển”. Trong khi đó, dưới thời Mao Trạch Đông, Trung Quốc theo đuổi chủ nghĩa cách mạng vô sản cực đoan, coi Liên Xô là đại diện của “chủ nghĩa xét lại”. Điều này dẫn đến xung đột ngày càng sâu sắc giữa hai cường quốc cộng sản.
Trong bối cảnh đó, Việt Nam phải tìm cách cân bằng, vừa nhận được sự ủng hộ tối đa từ Liên Xô và Trung Quốc, vừa tránh bị kéo vào phe của nước này hay nước kia. Cuốn sách phân tích chi tiết quá trình Việt Nam vừa phát triển quan hệ với Liên Xô và Trung Quốc theo hướng hữu nghị, hợp tác, vừa tìm cách giữ khoảng cách với những mâu thuẫn giữa hai đồng minh này.
Cụ thể, sau Hiệp định Geneva 1954, Việt Nam nhận được sự hỗ trợ lớn về quân sự, kinh tế từ Liên Xô và Trung Quốc, giúp nhanh chóng xây dựng lại và phát triển đất nước. Tuy nhiên, đến năm 1958, mâu thuẫn Liên Xô – Trung Quốc công khai bộc phát. Việt Nam phải cân bằng quan hệ, duy trì đường lối độc lập tự chủ, không theo phe nào, đồng thời vẫn nhận được viện trợ của cả hai nước.
Sang giai đoạn 1961-1965, mâu thuẫn Xô-Trung tiếp tục gia tăng gay gắt khi Trung Quốc tuyên bố Liên Xô là “xét lại thủ đô”, đòi Việt Nam chọn phe. Để giữ vững độc lập, Việt Nam kiên quyết duy trì chính sách đối ngoại đa phương, tiếp tục nhận viện trợ từ Liên Xô và Trung Quốc để chiến đấu chống Mỹ, đồng thời từ chối lời đề nghị của Trung Quốc muốn Việt Nam “chọn phe”.
Sau đó, khi cuộc chiến tranh leo thang tại miền Nam Việt Nam, cả hai nước đều tăng cường viện trợ quân sự, chính trị và kinh tế cho Việt Nam. Tuy nhiên, mâu thuẫn Xô-Trung vẫn tiếp diễn gay gắt. Để duy trì quan hệ hữu nghị với cả hai đồng minh, Việt Nam luôn giữ thái độ trung lập, không tham gia vào mâu thuẫn Xô-Trung, mà tập trung nỗ lực vào cuộc chiến chống Mỹ cứu nước.
Cuối cùng, với sự hy sinh to lớn của nhân dân và quân đội, Việt Nam đã giành được thắng lợi hoàn toàn vào năm 1975, thống nhất đất nước. Mặc dù mâu thuẫn Xô-Trung vẫn tiếp diễn, song cả Liên Xô và Trung Quốc đều ủng hộ mạnh mẽ Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc sau chiến thắng.
Cuốn sách đã phân tích sâu sắc và toàn diện về mối quan hệ phức tạp giữa Việt Nam, Liên Xô và Trung Quốc trong suốt giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, đồng thời khẳng định tầm quan trọng của chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ và trung lập của Việt Nam trong việc vừa phát triển quan hệ hữu nghị với các đồng minh, vừa giữ vững chủ quyền và lợi ích quốc gia. Cuốn sách cung cấp những thông tin quý giá giúp độc giả hiểu rõ hơn về bối cảnh lịch sử và những thách thức mà Việt Nam phải đối mặt trong quá trình kháng chiến chống Mỹ giải phóng dân tộc. Cuốn sách “Quan Hệ Tam Giác Việt Nam, Liên Xô, Trung Quốc Trong Cuộc Kháng Chiến Chống Mỹ (1954 – 1975)” của tác giả Phạm Quang Minh đã phân tích và tổng kết mối quan hệ phức tạp giữa Việt Nam, Liên Xô và Trung Quốc trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam từ năm 1954 đến 1975.
Sau Hiệp định Geneva 1954, miền Bắc Việt Nam giành được độc lập và thống nhất, tuy nhiên miền Nam vẫn chưa được giải phóng khỏi sự chiếm đóng của Mỹ và chính quyền bù nhìn do Mỹ lập nên. Để tiếp tục cuộc kháng chiến giải phóng miền Nam, Việt Nam cần sự hỗ trợ về quân sự, chính trị và kinh tế từ các đồng minh. Trong bối cảnh đó, Liên Xô và Trung Quốc đóng vai trò hết sức quan trọng đối với Việt Nam.
Tuy nhiên, quan hệ giữa hai nước cộng sản lớn Liên Xô và Trung Quốc lúc bấy giờ cũng đang trải qua nhiều biến động phức tạp. Sau khi Stalin qua đời năm 1953, chính sách đối ngoại của Liên Xô dần có những thay đổi theo hướng “đồng hành với các nước đang phát triển”. Trong khi đó, dưới thời Mao Trạch Đông, Trung Quốc theo đuổi chủ nghĩa cách mạng vô sản cực đoan, coi Liên Xô là đại diện của “chủ nghĩa xét lại”. Điều này dẫn đến xung đột ngày càng sâu sắc giữa hai cường quốc cộng sản.
Trong bối cảnh đó, Việt Nam phải tìm cách cân bằng, vừa nhận được sự ủng hộ tối đa từ Liên Xô và Trung Quốc, vừa tránh bị kéo vào phe của nước này hay nước kia. Cuốn sách phân tích chi tiết quá trình Việt Nam vừa phát triển quan hệ với Liên Xô và Trung Quốc theo hướng hữu nghị, hợp tác, vừa tìm cách giữ khoảng cách với những mâu thuẫn giữa hai đồng minh này.
Cụ thể, sau Hiệp định Geneva 1954, Việt Nam nhận được sự hỗ trợ lớn về quân sự, kinh tế từ Liên Xô và Trung Quốc, giúp nhanh chóng xây dựng lại và phát triển đất nước. Tuy nhiên, đến năm 1958, mâu thuẫn Liên Xô – Trung Quốc công khai bộc phát. Việt Nam phải cân bằng quan hệ, duy trì đường lối độc lập tự chủ, không theo phe nào, đồng thời vẫn nhận được viện trợ của cả hai nước.
Sang giai đoạn 1961-1965, mâu thuẫn Xô-Trung tiếp tục gia tăng gay gắt khi Trung Quốc tuyên bố Liên Xô là “xét lại thủ đô”, đòi Việt Nam chọn phe. Để giữ vững độc lập, Việt Nam kiên quyết duy trì chính sách đối ngoại đa phương, tiếp tục nhận viện trợ từ Liên Xô và Trung Quốc để chiến đấu chống Mỹ, đồng thời từ chối lời đề nghị của Trung Quốc muốn Việt Nam “chọn phe”.
Sau đó, khi cuộc chiến tranh leo thang tại miền Nam Việt Nam, cả hai nước đều tăng cường viện trợ quân sự, chính trị và kinh tế cho Việt Nam. Tuy nhiên, mâu thuẫn Xô-Trung vẫn tiếp diễn gay gắt. Để duy trì quan hệ hữu nghị với cả hai đồng minh, Việt Nam luôn giữ thái độ trung lập, không tham gia vào mâu thuẫn Xô-Trung, mà tập trung nỗ lực vào cuộc chiến chống Mỹ cứu nước.
Cuối cùng, với sự hy sinh to lớn của nhân dân và quân đội, Việt Nam đã giành được thắng lợi hoàn toàn vào năm 1975, thống nhất đất nước. Mặc dù mâu thuẫn Xô-Trung vẫn tiếp diễn, song cả Liên Xô và Trung Quốc đều ủng hộ mạnh mẽ Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc sau chiến thắng.
Cuốn sách đã phân tích sâu sắc và toàn diện về mối quan hệ phức tạp giữa Việt Nam, Liên Xô và Trung Quốc trong suốt giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, đồng thời khẳng định tầm quan trọng của chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ và trung lập của Việt Nam trong việc vừa phát triển quan hệ hữu nghị với các đồng minh, vừa giữ vững chủ quyền và lợi ích quốc gia. Cuốn sách cung cấp những thông tin quý giá giúp độc giả hiểu rõ hơn về bối cảnh lịch sử và những thách thức mà Việt Nam phải đối mặt trong quá trình kháng chiến chống Mỹ giải phóng dân tộc.
Mời các bạn đón đọc Quan Hệ Tam Giác Việt Nam, Liên Xô, Trung Quốc Trong Cuộc Kháng Chiến Chống Mỹ (1954 – 1975) của tác giả Phạm Quang Minh.