Cuốn sách “Sinh Vật Thần Thoại Khắp Thế Gian” là một tuyển tập các truyện kể về những sinh vật huyền bí từ khắp năm châu bốn biển. Mỗi câu chuyện không chỉ mang lại sự giải trí mà còn cung cấp thông tin về sinh vật như loài, nơi sinh sống, khả năng đặc biệt cùng với mức độ nguy hiểm của chúng.
Cuốn sách đánh giá mức độ nguy hiểm của các sinh vật dựa trên thang điểm nhất định:
1. Vô hại, thậm chí có thể giúp đỡ con người.
2. Khá phiền phức, nhưng có thể kiểm soát được.
3. Nguy hiểm, cần phải cẩn trọng khi tiếp xúc.
4. Cực kỳ nguy hiểm, đề phòng và tránh xa.
5. Chỉ có thần linh mới có thể đối phó được.
Việc đánh giá mức độ nguy hiểm giúp độc giả hiểu rõ hơn về tính chất của từng sinh vật và cung cấp thông tin hữu ích để xác định cách tiếp cận và đối phó với chúng. Hành trình khám phá thế giới truyện kể về những sinh vật thần thoại sẽ mang lại cho độc giả những trải nghiệm thú vị và phong phú về thế giới đầy bí ẩn này.
—
Yêu nữ Huldra
- Chủng loài: Yêu tinh
- Nơi sinh sống: Vùng rừng núi Bắc Âu
- Khả năng đặc biệt: Phù phép quyến rũ nam giới, yểm bùa nguyền rủa, và một số năng lực pháp thuật khác
- Đánh giá mức độ nguy hiểm: ★ ★
Sâu trong những cánh rừng âm u vùng Bắc Âu, có một thiếu nữ tên là Huldra sống cô độc một mình. Nhiều người gọi Huldra là tiên rừng, nhưng cũng không ít người coi nàng là quái vật bởi hình dạng kì lạ. Giống như nhiều thiếu nữ, Huldra có gương mặt xinh đẹp, làn da trắng và mái tóc vàng óng. Điểm khác người duy nhất là nàng mọc một cái đuôi to dài và thô kệch như đuôi bò, thêm nữa, lưng nàng có một lỗ thủng trông giống như một cái hốc trên thân cây.
Dù sao thì Huldra vẫn rất xinh đẹp. Không những thế, nàng còn thành thạo thuật thôi miên và sở hữu giọng hát vô cùng lôi cuốn, kết hợp hoàn hảo với tiếng đàn hạc khiến không một gã đàn ông nào đủ nghị lực và tỉnh táo để cưỡng lại sức hút đó. Người đàn ông nào trót theo Huldra vào rừng thì phải đồng ý cưới nàng làm vợ để có cơ hội trở về.
Một lần, Huldra nhận được lời cầu hôn, và nàng vô cùng hạnh phúc. Vậy là nàng sắp được làm vợ, sắp thoát khỏi khu rừng âm u cùng nỗi cô đơn dẳng dại đeo bám.
Vào ngày đám cưới diễn ra, Huldra bất ngờ nhận thấy ma thuật của nàng bị vô hiệu hóa ngay khi nàng đặt chân lên lễ đường. Từ một cô dâu xinh đẹp, Huldra biến thành cô gái vô cùng xấu xí, tuy nhiên, mừng là cái đuôi bò của nàng cũng biến mất. “Thế là từ bây giờ, mình sẽ chẳng còn bị gọi là quái vật nữa.” Huldra thầm nghĩ, trong lòng vô cùng hạnh phúc.
Nhưng, lại một lần nữa Huldra không lường hết được mọi chuyện. Người chồng của nàng không hề vui mừng khi thấy cái đuôi mất đi, ngược lại, anh ta chán nản vì cô vợ mình vừa cưới vốn đang xinh đẹp giờ bỗng trở nên xấu xí. Chẳng mấy chốc, người chồng đối xử lạnh nhạt với Huldra và bắt đầu có ý định đi tán tỉnh một cô gái khác. Huldra biết được, giận lắm, giận đến nỗi cái đuôi bò mọc trở lại. Nàng dùng cái đuôi đó quất cho gã chồng bội bạc một trận nên thân rồi bỏ về rừng, tiếp tục sống cuộc sống tự do tự tại. Thật kì lạ, ngay khi trở về cánh rừng quen thuộc, nhan sắc của Huldra lại xinh đẹp như xưa. Nàng không bao giờ còn phiền lòng về cái đuôi của mình nữa.
Thi thoảng, Huldra vẫn giấu kĩ chiếc đuôi trong váy, ra khỏi rừng và tản bộ dọc bờ sông.
Một lần nọ, có anh chàng tên là Hagen đi câu cá ngoài sông. Anh định bụng đem số cá câu được ra chợ bán để đổi lấy quần áo ấm cho mùa đông sắp tới. Hagen buông cần từ sáng sớm mà đến giữa trưa vẫn chẳng có con cá nào cắn câu. Đang chán nản, anh bỗng nhìn thấy một cô gái vô cùng xinh đẹp với mái tóc vàng óng dạo bước lại gần. Khỏi nói thì chúng ta ai cũng đoán được đó là Huldra. Lúc đầu, Hagen không nhận ra nàng, nhưng khi nhìn thấy cái đuôi bò trứ danh mà nàng vô tình để lộ dưới tà váy thì Hagen biết ngay. Thế nhưng, không giống như những người dân làng luôn sợ hãi bỏ chạy hoặc cười nhạo Huldra, Hagen nhẹ nhàng cúi đầu chào và nói: “Thưa tiểu thư, dường như lớp váy lót của nàng đang lộ ra bên ngoài.”
Hulra vội giấu chiếc đuôi đi và thầm khen ngợi Hagen là một chàng trai tử tế. Để tưởng thưởng Hagen, Huldra chỉ cho chàng vị trí có nhiều cá. Hagen làm theo lời chỉ dẫn của Huldra nên ngày hôm đó và rất nhiều ngày sau, anh chàng câu được vô số cá. Vậy là mùa đông năm ấy Hagen có áo ấm để mặc rồi!
Bạn có biết: Một truyền thuyết khác về Huldra kể rằng: Khi Adam và Eva đang tắm cho những đứa con của mình, bất chợt Chúa đến thăm. Lúc đó còn một đứa trẻ chưa được tắm nên Eva vội vã đem giấu nó đi. Chúa nhìn qua một lượt những đứa trẻ sạch sẽ thơm tho và hỏi Eva: “Con có bỏ sót đứa trẻ nào không?” “Không, thưa Đức Chúa, tất cả đều ở đây.” Bạn biết đấy, đâu có dễ đánh lừa Chúa. Ngài nói: “Tốt thôi, hãy cứ để những gì giấu kín được giấu kín.” Vậy là đứa trẻ bị Eva giấu đi trở thành Huldra và luôn sống ẩn nấp trong rừng sâu, không bao giờ gặp gỡ người ngoài.
—-
Hải quái Kraken
- Chủng loài: Quái vật
- Nơi sinh sống: Vùng biển Bắc Âu
- Khả năng đặc biệt: Còn là điều bí ẩn chưa được khám phá. Chỉ biết rằng với những xúc tu khổng lồ, nó có thể dễ dàng nhấc bổng và bẻ đôi một con tàu lớn
- Đánh giá mức độ nguy hiểm: ★ ★ ★ ★ ★
Ông cụ Brant từng là một thủy thủ. Thời trẻ, ông cụ rong ruổi trên biết bao hải trình, đối diện với biết bao cơn bão, cập bờ biết bao miền đất xa lạ. Mỗi tối, lũ trẻ trong làng háo hức ngồi trước lò sưởi ấm áp nhà ông cụ để nghe kể về các cuộc phiêu lưu trên biển. Có một chuyện mà đứa trẻ nào cũng nhớ như in nhưng lúc nào cũng muốn nghe ông cụ Brant kể lại, và lần nào nghe ông cụ kể chúng cũng há hốc mồm vì kinh ngạc như mới lần đầu nghe bởi nó quá kì lạ, quá khó tin. Đó là câu chuyện về Kraken – chúa tể của biển cả, con quái vật to lớn nhất còn sót lại trên thế giới.
“Lần đó, tàu của chúng ta xuất phát từ bờ biển Na Uy, dự định đi ngược lên hướng Tây Bắc để đến Ireland, sau đó đi tiếp, xa nữa, đến Greenland. Trời lạnh cắt da cắt thịt, đổi lại, biển rất hiền lành. Tàu của chúng ta đi được độ hai hay ba ngày gì đó, ta không còn nhớ rõ, mọi thứ rất an lành. Trời lạnh lắm các cháu ạ, nhưng yên bình, và rượu rum thì giúp chúng ta giữ ấm và vui vẻ hơn.
Những ngày tiếp theo, biển hơi động, nhưng vẫn không có dấu hiệu của cơn bão nào – đó là điều tuyệt vời nhất. Bất chợt, tay hoa tiêu đang đứng trên cột buồm hét lên:
“Một hòn đảo! Có một hòn đảo cách đây chỉ khoảng hai hải lí.”
“Thật kì lạ!”
Thuyền trưởng của chúng ta nhăn trán, ông giở tấm bản đồ ra xem.
“Không thể có hòn đảo nào cách chỗ chúng ta hai hải lí được. Không có hòn đảo nào như thế được vẽ trên bản đồ cả. Cậu chắc chứ, Even?” Thuyền trưởng hỏi tay hoa tiêu.
“Tôi luôn tin tưởng vào đôi mắt của mình, thưa thuyền trưởng!” Cậu ta cả quyết.
Vậy là toàn đoàn quyết định đến gần hòn đảo xem cho rõ thực hư. Đó đúng là một hòn đảo, rộng xấp xỉ mười dặm. Một hòn đảo trống không, chẳng có rừng cây hay núi đồi, nằm trơ trọi như một khối đá giữa đại dương.
“Sợ quái gì, cứ lên đảo chơi cho biết!” Một thủy thủ nêu ý kiến, cùng ý kiến với đại đa số thủy thủ đoàn.
Vậy là thuyền trưởng ra lệnh hạ neo rồi cử một đôi thuyền nhỏ chèo vào thăm dò. Có lẽ gọi đó là “một khối đá giữa đại dương” thì đúng hơn là một “hòn đảo”. Ngoài lớp rêu và thực vật nhỏ, chẳng có sinh vật sống nào trên đảo.
Đêm hôm đó, chúng ta đốt lửa trại và ăn uống vui vẻ. Cho dù nó là một hòn đảo trống không thì cảm giác được đặt chân lên mặt đất sau nhiều ngày lênh đênh cũng làm ai nấy khoan khái, dễ chịu.
Đến nửa đêm, cả đoàn tỉnh giấc bởi sự rung lắc dữ dội. Dường như có động đất. Hòn đảo rung chuyển và chìm dần xuống biển. Chúng ta hốt hoảng chèo về thuyền lớn, chẳng kịp thu dọn đồ. Mặt biển dao động liên tục, mặc dù trời không hề mưa bão. Những xoáy nước khổng lồ tựa như muốn hút cả con tàu xuống đáy sâu. Thuyền trưởng tức tốc ra lệnh cho thuyền viên căng buồm, chèo hết tốc lực ra khỏi vùng biển dữ.
Hòn đảo vừa chìm xuống biển lại lập tức nổi lên, tạo ra những cơn sóng vĩ đại. Từ dưới đáy biển, những xúc tu như thể của một con bạch tuộc khổng lồ tóm lấy vài thủy thủ xấu số và lôi tuột xuống nước. Một cột buồm bị đập gãy.
Và, trong nỗi kinh hoàng tột độ, chúng ta nhận ra cái thứ mà chúng ta đã đặt chân lên ngày hôm đó không phải là một hòn đảo. Nó là một sinh vật sống. Một con quái vật biển khổng lồ. Chính là Kraken trong truyền thuyết, ác mộng của các thủy thủ! Chúng ta không tin được là nó có thật cho đến khi một cái xúc tu nữa đập vỡ mạn tàu. Dưới ánh trăng lờ mờ, chúng ta không thể nhìn rõ Kraken, nhưng có lẽ cái phần nổi trên mặt nước, cái thứ mà chúng ta ngỡ là một hòn đảo, chỉ là một bộ phận trên cơ thể của con quái vật mà thôi. Chắc chắn kích thước của nó còn to hơn chúng ta tưởng tượng rất nhiều.
Lại thêm vài thủy thủ bị những xúc tu của Kraken kéo xuống biển. Đứng trước sinh vật hùng mạnh và to lớn nhất đại dương, con tàu trông bé nhỏ như một miếng đồ chơi gỗ. Con thủy quái dùng những xúc tu quấn lấy thân tàu và nâng con tàu lên cao. Ta nghĩ rằng ta đã nhìn thấy một cái gì như đôi mắt của con Kraken, to và đỏ rực ngay cả khi ở bên dưới mặt nước đen thẫm. Chỉ một cú xiết, con tàu vỡ tan trong những xúc tu. Cả đoàn nhanh chân nhảy ra khỏi tàu trước khi con tàu nát vụn. Chúng ta cố gắng bơi ra xa hết sức có thể, nhưng có lẽ đó chỉ là những hành động vẫy vùng trong vô vọng. Chẳng thể nào thoát khỏi kết cục làm mồi cho Kraken.
Chắc các cháu đang thắc mắc tại sao ta vẫn còn sống và ngồi đây kể lại? Đúng rồi đấy! Vài người trong chúng ta may mắn thoát chết. Chính vào giây phút nguy kịch nhất, khi cả đám sắp làm mồi cho Kraken, trời nổi cơn dông. Những tia sét rạch ngang bầu trời, sấm chớp ầm ầm như một trận thủy chiến bằng đại bác. Có lẽ Kraken không quen với thứ ánh sáng lóe chớp từng hồi, cũng không cảm thấy dễ chịu khi nghe các tiếng nổ lúc một tia sét đánh xuống tựa như cơn thịnh nộ của thần Thor vĩ đại. Vậy là nó lặn sâu xuống đáy biển. Thật vậy, Kraken lặn không sủi tăm. Nó quay về với đáy biển tăm tối và yên tĩnh. Chúng ta thoát chết trong gang tấc. Những hạt mưa bắt đầu rơi. Sấm sét vẫn đì đùng trên đầu, sóng biển dâng lên rồi hụp xuống, nhưng chưa bao giờ chúng ta mừng khi gặp bão đến vậy. Những người sống sót, trong đó có ta, cố gắng bám vào những mảnh vỡ của con tàu, và đến sáng hôm sau, khi bão tan, chúng ta may mắn được một tàu bạn đi ngang qua cứu. Chúng ta gần như chết cóng, đói lả và kiệt sức, nhưng sống sót. Một nửa thủy thủ đoàn vẫn toàn mạng. Sau này, ta không mấy khi gặp lại các đồng đội năm đó. Đó là chuyến ra biển cuối cùng của ta. Ta sợ rằng Kraken vẫn ẩn khuất đâu đó dưới đáy biển tăm tối để chờ ta, tin ta đi, nó có thể chờ hàng trăm năm đấy!”
Bạn có biết: Kraken có thể có thật! Những người đánh cá đã từng bắt được các con bạch tuộc có chiều dài từ 18 đến 24 mét ở những vùng biển sâu thuộc Bắc Thái Bình Dương và Bắc Đại Tây Dương. Thậm chí nhiều con có kích thước tương đương một chiếc xe buýt loại nhỏ.
—
Xà vương Basilisk
- Chủng loài: Quái thú
- Nơi sinh sống: Tây Âu
- Khả năng đặc biệt: Độc tố trên người cực mạnh, ngoài ra có thể hóa đá con mồi chỉ bằng một cái liếc mắt
- Đánh giá mức độ nguy hiểm: ★ ★ ★ ★
Có một quả trứng rắn, chẳng biết bằng cách nào, lăn vào ổ của bầy gà. Không con gà mái nào chịu ấp quả trứng kì lạ đó, cuối cùng, chỉ có một con gà trống bảy tuổi chịu ấp. Có lẽ chính vì sự khác thường ấy mà quả trứng nở ra một con quái vật.
Càng lớn trông con quái vật càng khủng khiếp. Nó có cái đầu của gà trống, đuôi của rắn và thân hình của thằn lằn. Đôi cánh nó giống như một đôi cánh dơi khổng lồ, trải rộng và mọc những móng vuốt sắc lẻm. Người ta đặt tên cho nó là Basilisk.
Với vóc dáng to lớn và vẻ ngoài đáng sợ, Basilisk nhanh chóng trở thành mối đe dọa của những sinh vật hiền lành như lũ gà. Con quái vật không thèm ở với đám gà nữa mà tìm về với quê cha đất tổ – ổ của bầy rắn.
Basilisk chẳng hề giống những con rắn thông thường, cũng như chẳng có vẻ gì giống một con gà, nhưng điều đó không hề chi, Basilisk nhanh chóng chinh phục bầy rắn bằng sức mạnh đáng sợ của nó. Một con rắn nhìn cái mào trên đỉnh đầu của Basilisk và nói với chúng bạn: “Nhìn kìa, trên đầu ngài Basilisk có một cái vương miện đỏ chói. Ngài ấy sinh ra với số mệnh được làm vua rồi!” Vậy là lũ rắn nhao nhao hưởng ứng cái “số mệnh” đó, tôn vinh Basilisk làm vua của loài rắn. Có vị vua mới mạnh mẽ, lũ rắn trở nên bạo dạn và sẵn sàng gây chiến với các giống vật khác trong rừng. Giờ bọn chúng chẳng sợ loài mãnh thú nào nữa. Kể cả gấu xám hay chó sói cũng bị Basilisk đánh bại. Basilisk chẳng phải vất vả gì nhiều, bởi trên người nó có sẵn một loại chất kịch độc, bất kể sinh vật sống nào chạm vào đều lăn ra chết ngay tức khắc.
Danh tiếng về nỗi sợ hãi mà Basilisk gây ra chẳng mấy chốc vượt ra ngoài phạm vi khu rừng. Một hiệp sĩ dũng cảm tình nguyện vào rừng tiêu diệt con quái vật. Biết trước về chất độc chết người của Basilisk, chàng trang bị một bộ giáp sắt che kín từ đầu đến chân, thêm một cây giáo thật dài để có thể tấn công con quái vật từ xa. Chàng hiệp sĩ cảm thấy vô cùng tự tin, phóng ngựa đến hang ổ của Basilisk. Thấy Basilisk đang nằm ngủ, chàng thúc ngựa lao đến, chĩa mũi giáo về phía trước, đâm vào con quái vật. Thế nhưng, mọi chuyện tồi tệ hơn chàng hiệp sĩ nghĩ. Basilisk không hề hấn gì, hơn nữa, chất độc trên thân mình nó còn truyền qua ngọn giáo, thấm qua cả lớp giáp sắt dày của chàng hiệp sĩ, giết chết chàng ta, đồng thời, cả con ngựa mà chàng cưỡi cũng chịu chung số phận. Chất độc của Basilisk quả là thứ đáng sợ nhất trần đời!
Hồi Basilisk còn nhỏ, khi mà chất độc của nó còn chưa hình thành, Basilisk đã vượt trội về vóc dáng kì quái và có sức mạnh hơn hẳn các sinh vật khác. Một đêm nọ, nó trở về, toàn thân dính đầy máu của loài vật, trên mặt lộ vẻ hả hê. Thì ra, nó vừa đánh bại cả một đàn sói.
“Basilisk nhỏ bé,” con gà trống than, “sao lúc nào con cũng hung dữ và tàn ác như vậy? Con gây chiến với tất cả các loài. Chẳng lẽ con không biết sợ sao?”
“Số mệnh đã định con sẽ trở thành vua của muôn loài, là mãnh thú vô địch. Chẳng kẻ nào có thể đánh nhau với con mà toàn mạng.” Basilisk ngáp dài, chui vào ổ của nó để ngủ. “Nhưng vì cha đã hỏi, con sẽ kể cho cha một bí mật. Chỉ có loài chồn hương mới là thiên địch của con thôi.”
Nói rồi, con quái vật khép mi mắt, chìm sâu vào giấc ngủ.
Nhờ thông tin con gà già cung cấp, lũ gà trẻ vội vã đi tìm một con chồn hương. Tiếc thay, loài này đã chuyển khỏi khu rừng từ nhiều năm trước, chẳng còn một mống. Đang buồn bã âu sầu, bỗng một con gà nhớ ra bà nội nó từng chơi thân với một ông chồn – ông chồn duy nhất còn sót lại ở khu rừng này. Hồi nhỏ, chính nó từng đi cùng bà đến chơi nhà ông. Lần theo trí nhớ, con gà tìm lại được hang của ông chồn. Ông chồn đang ngủ. Đã nhiều năm nay, ông chồn không ra khỏi hang. Ông chẳng quan tâm đến những chuyện đang diễn ra bên ngoài, cũng bỏ luôn thói quen săn mồi.
Con gà lay ông chồn già dậy, kể cho ông mối nguy từ Basilisk và cầu xin ông ra tay giúp khu rừng. Gà phải kể những ba lần ông chồn mới nghe thủng câu chuyện. Sự nhiệt tình thời tuổi trẻ bỗng bừng lên trong ông, và ông quyết định quyết chiến với con quái vật.
Những giác quan nhạy bén của một con thú chuyên săn rắn dường như chưa từng rời bỏ ông chồn già. Mắt ông nhìn rõ mọi thứ, mũi ông thì liên tục tiếp nhận và phân loại hàng trăm mùi hỗn độn. Chẳng mấy chốc ông chồn đã lần được đến tổ của Basilisk. Con quái vật nhìn thấy địch thủ trước mặt thì có phần hoảng hốt, nó dùng ánh mắt chết người để hóa đá ông chồn nhưng vô dụng. Cả hai lao vào đánh nhau bằng móng vuốt, răng và mỏ. Basilisk to lớn gấp chục lần ông chồn, nhưng ông chồn lại khéo léo, nhanh nhẹn, biết tấn công vào những điểm yếu của con quái vật. Tuy vậy, do tuổi cao sức cạn, ông lãnh vô số vết thương, sợ rằng không cầm cự được lâu. Đang lúc nguy cấp, con gà trống trẻ tuổi đã kể ở trên vẫn núp trong bụi quan sát trận đấu nãy giờ bỗng nhảy ra gáy to một tiếng. Mặc dù nó còn trẻ, tiếng gáy chưa đủ nội lực, nhưng cũng đủ khiến Basilisk giật mình, bỏ trận, chạy một mạch. Giữa rừng vốn có một cái hồ nước, nhỏ thôi, nhưng mặt hồ phẳng lì như gương. Basilisk chạy đến đây thì hết đường. Nó vô tình nhìn xuống mặt nước, thấy gương mặt đáng sợ của mình phản chiếu dưới đó và không khỏi kinh hãi. Thừa lúc ấy, ông chồn già từ đâu nhảy đến, cắn ngập bộ răng vào cổ Basilisk. Con quái vật hét lên một tiếng ghê rợn rung động cả cánh rừng rồi lăn ra chết.
Ông chồn già kiệt sức sau trận chiến, hoặc cũng có thể đã ngấm quá nhiều độc của Basilisk, trút hơi thở cuối cùng bên xác con quái vật. Cả khu rừng thương tiếc chôn cất ông chồn hương dũng cảm. Không còn Basilisk, lũ rắn chẳng thể tác oai tác quái, các loài vật lại sống cuộc sống thanh bình và an toàn như trước. Tuy nhiên, huyền thoại về con quái vật Basilisk vẫn thường được lũ thú vật và con người đem ra kể cho nhau nghe trong những đêm mưa gió rùng rợn.
Bạn có biết: Người ta rất dễ nhầm lẫn Basilisk với một loại quái vật khác là Cockatrice bởi hình dáng tương tự và cùng có nọc độc chết người. Điểm khác biệt là Basilisk được sinh ra từ quả trứng rắn (hoặc cóc) được ấp bởi một con gà. Cockatrice thì ngược lại, được sinh ra từ một quả trứng gà ấp bởi một con rắn (hoặc cóc). Thực ra việc phân biệt hai con quái vật này cũng không quá quan trọng, vì dù gặp con nào thì lựa chọn tốt nhất của chúng ta vẫn là chạy càng xa càng tốt.
Mời các bạn đón đọc cuốn sách Sinh Vật Thần Thoại Khắp Thế Gian của tác giả Epic