Cuốn sách “Tâm lý học tội phạm” là bộ sách gồm 2 tập, đi sâu vào phân tích những góc khuất tâm trí của con người, từ đó lý giải nguyên nhân và hành vi của những kẻ phạm tội.
Tác giả Stanton E. Samenow, với hơn 3 thập kỷ kinh nghiệm làm việc với tội phạm, đã đưa ra những lập luận đầy thuyết phục về bản chất của tội ác. Ông khẳng định rằng các yếu tố như nghèo đói, ly hôn hay bạo lực truyền thông không phải là nguyên nhân chính dẫn đến hành vi phạm tội. Thay vào đó, tư duy méo mó và suy nghĩ sai lệch chính là yếu tố then chốt tạo nên những kẻ tội phạm.
Ấn bản mới nhất của “Tâm lý học tội phạm” được cập nhật với những thông tin mới mẻ về các loại tội phạm hiện nay, từ bạo lực gia đình, lừa đảo mạng đến khủng bố chính trị.
Cuốn sách là một lời cảnh tỉnh cho xã hội về sự nguy hiểm của những kẻ phạm tội, đồng thời đề xuất những giải pháp hiệu quả để phòng chống và ngăn ngừa tội ác.
Mời các bạn đón đọc Tâm Lý Học Tội Phạm Tập 1 của tác giả Stanton E. Samenow
—
LỜI GIỚI THIỆU
Hai năm sau khi ra trường, thời điểm tôi mới 28 tuổi, trong suốt tháng 1 năm 1971 tôi cùng với Tiến sĩ Samuel Yochelson đảm nhận vai trò chuyên gia tâm lý nghiên cứu lâm sàng trong Chương trình Điều tra Hành vi Tội phạm tại Bệnh viện St. Elizabeths tại Washington, D.C. Khi ấy tôi gần như không nhận ra rằng mình đã bắt đầu con đường sự nghiệp mà bản thân sẽ theo đuổi cho đến tận những năm 70 tuổi. Tiến sĩ Yochelson khởi động chương trình này năm 1961 và đây vẫn là chương trình điều trị nghiên cứu chuyên sâu về tội phạm dài nhất được thực hiện tại Bắc Mỹ. Khi ông qua đời vào ngày 12 tháng 11 năm 1976, tôi trở thành người kế tục chương trình đột phá này và tiếp tục công việc đánh giá cũng như làm việc với tội phạm, từ những tên trộm cắp vặt cho tới những kẻ đam mê giết người.
Trong nhiều thập kỷ qua, những hiểu biết thông thường phổ biến về hoạt động phạm tội đã coi kẻ phạm tội là nạn nhân của những tác động mà người đó gần như không hoặc không thể kiểm soát được. Hầu như mọi thứ có thể nghĩ tới đều được xác định là nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội, bao gồm nghèo đói, sự yếu kém trong việc nuôi dạy con cái, áp lực từ bạn bè, bạo lực trên các phương tiện truyền thông và nhiều loại bệnh khác nhau về tinh thần. Tiến sĩ Yochelson và tôi cùng chung quan điểm về giả thuyết tiền đề này khi bắt đầu chương trình. Chúng tôi đã dành hàng nghìn giờ đồng hồ để phỏng vấn những tội phạm và những người khác hiểu rõ về tội phạm trong giai đoạn từ năm 1961 đến năm 1978. Chúng tôi nhận ra rằng, những cá nhân này không phải do môi trường của họ không may nhào nặn nên và điều này trái ngược với những gì chúng tôi tin tưởng ban đầu. Không có nguyên nhân phạm tội nào được chấp nhận rộng rãi có thể lý giải phù hợp khi xem xét kỹ lưỡng. Ngoài ra, những người phạm tội chúng tôi làm việc cùng đã khai thác việc tìm kiếm nguyên nhân của chúng tôi để đưa ra nhiều lời bào chữa hơn cho tội ác của mình. Khi đề cập đến hoạt động điều trị tâm thần trong nhiều tháng, một người đàn ông nói với Tiến sĩ Yochelson trong một khoảnh khắc trải lòng hiếm hoi, “Thưa Tiến sĩ, nếu tôi đưa ra quá nhiều lời bào chữa cho hành vi phạm tội của mình trước khi điều trị tâm thần thì bây giờ tôi đã có thể sở hữu cả một gia tài sau ngần ấy năm”. Khi chúng tôi giúp bản thân thoát khỏi vấn đề tìm kiếm “nguyên nhân của hành vi tội phạm”, chúng tôi có thể nâng cao hiểu biết về cách thức tư duy của tội phạm trong mọi khía cạnh của cuộc sống cũng như phát triển một quy trình nhằm giúp một số tội phạm thay đổi. Hành vi là sản phẩm của tư duy, và do đó, bất cứ ai hoạch định chính sách hoặc làm việc với người phạm tội đều có trách nhiệm phải hiểu được cách thức tư duy của tội phạm.
Sau khi công việc của chúng tôi tại Bệnh viện St. Elizabeths được giới thiệu trong một phân đoạn của chương trình 60 Minutes trên đài CBS News vào ngày 17 tháng 2 năm 1977, tôi bắt đầu nhận được những lời mời đến trò chuyện với các nhóm chuyên gia về hoạt động cải huấn, sức khỏe tinh thần, công tác xã hội, tư vấn về việc làm dụng các chất, thực thi pháp luật, và bộ máy tư pháp. Những phản hồi từ khán giả có cả những vụ tấn công cá nhân (thậm chí tôi còn bị cáo buộc là gây nguy hiểm) vì tôi không thừa nhận những học thuyết gần như quan trọng nhất về nguyên nhân gây ra hành vi phạm tội, và hơn nữa tôi còn khẳng định sự tồn tại thực sự của “tính cách tội phạm”. Dường như có sự khác biệt về quan điểm giữa những “người theo thuyết ghế bành” rất ít hoặc không có sự liên hệ trực tiếp với tội phạm và những người tương tác hằng ngày với những đối tượng đó. Nhóm thứ hai – cán bộ cải huấn, cố vấn, quan chức thực thi pháp luật, và các nhà tâm lý học – chấp nhận công việc của chúng tôi bởi vì nó phù hợp với những gì họ gặp phải hằng ngày trong công việc và vì nó đưa ra những góc nhìn chuyên sâu giúp họ thực hiện công việc hiệu quả hơn.
Ấn bản đầu tiên của cuốn sách Tâm lý học tội phạm được xuất bản năm 1984, và ấn bản thứ hai xuất bản năm 2004. Sau một thập kỷ, hiện đã đến lúc bổ sung thêm các thông tin cho cuốn sách này. Trong ấn bản này, bạn sẽ hiểu chi tiết về các quá trình tư duy và chiến thuật phổ biến đối với những kẻ phạm tội, bất kể lý lịch hay tội ác của chúng.
Bản chất con người không thay đổi, và do đó tư duy tội phạm mà tôi mô tả trong các ấn bản trước của cuốn sách này cũng không thay đổi. Tuy nhiên, một xã hội liên tục thay đổi đã tạo ra những con đường mới để tư duy tội phạm thể hiện vai trò của mình. Ví dụ, hành vi bắt nạt không phải là mới nhưng bắt nạt trên không gian mạng thì lại mới mẻ và nó tạo ra cho những thanh thiếu niên và người trưởng thành có khuynh hướng phạm tội một đấu trường mới rộng lớn hơn, gây ra nhiều đau khổ hơn.
Internet là một phương tiện nhanh chóng và hiệu quả để tiến hành nghiên cứu, mua sắm, lập kế hoạch du lịch và giao tiếp với những người khác. Công nghệ đã mở ra một thế giới tương tự cho tội phạm để chúng có thể tiến hành “nghiên cứu” và thực hiện các kế hoạch. Với Internet, tội phạm có quyền truy cập ngay lập tức để làm những gì chúng vẫn luôn làm – gian lận, lừa đảo, ăn cắp và đe dọa. Tội phạm mạng ngày càng trở thành mối đe dọa đối với các cá nhân, doanh nghiệp và chính phủ. Những kẻ phạm tội cách xa những nạn nhân hàng ngàn dặm và nằm ngoài phạm vi của các cơ quan thực thi pháp luật vẫn có thể xâm nhập vào các hệ thống máy tính của chính phủ, đánh cắp thông tin cá nhân, ăn cắp mã nhận dạng và tiêu diệt các phần mềm hoặc hồ sơ kinh doanh có giá trị của công ty.
Ấn bản năm 2004 của cuốn sách Tâm lý học tội phạm bao gồm một chương về sự tham gia của tội phạm trong thế giới ma túy. Ấn bản này mở rộng cuộc thảo luận đó để đưa vào tình trạng lạm dụng thuốc kê đơn đáng báo động, việc sản xuất và sử dụng các loại ma túy tổng hợp mới bổ sung thêm vào vấn đề xã hội vốn đã rất nghiêm trọng này. Sản xuất, phân phối và sử dụng ma túy tạo ra những âm mưu phạm tội, cảm giác phấn khích và lợi nhuận về tài chính.
Cùng với việc cung cấp những thông tin chi tiết hơn về các phương thức tư duy và hành động của tội phạm (và ít thông tin hơn về những nguyên nhân được viện dẫn trong hành vi phạm tội), tôi dành một chương cho hai trường hợp, trong đó hai thanh niên có hoàn cảnh rất khác nhau phạm tội giết người. Bạn sẽ thấy rằng, các quá trình tư duy của thanh niên xuất thân từ một gia đình giàu có và thanh niên lớn lên trong một ngôi nhà nội đô hỗn loạn là hoàn toàn giống nhau. Trong toàn bộ cuốn sách này, bạn sẽ thấy được sự giống nhau trong cách thức tư duy giữa những tên tội phạm cổ cồn trắng phạm tội chiếm đoạt hàng triệu đô la và những tên côn đồ đường phố đe dọa một người già bằng dao chỉ để cướp lấy 20 đô la.
Tôi đã bổ sung một chương về vấn đề tình dục trong cuộc đời của kẻ phạm tội. Việc theo đuổi vấn đề tình dục và thực hiện các hành vi phạm tội tình dục gần như không liên quan đến việc thỏa mãn tình dục. Thay vào đó, thông qua hoạt động tình dục, tội phạm thể hiện sức mạnh, nuôi dưỡng bản ngã và khẳng định anh ta là người khó có thể cưỡng lại được. Quan niệm này đóng vai trò quan trọng trong việc hiểu được tâm lý của các giáo sĩ, huấn luyện viên, cố vấn và những nhà giáo dục, những người có thể thao túng người khác để lấy lòng tin và sau đó lợi dụng vị trí của họ để dụ dỗ trẻ em trở thành nạn nhân tình dục.
Tội phạm cảm thấy tức giận vì mọi người không đáp ứng được mong đợi của anh ta. Họ không thừa nhận nhận thức của anh ta về bản thân là một người quyền lực, độc nhất và vượt trội. Những gì hầu hết chúng ta cho là những rắc rối thường ngày lại được tội phạm coi như những mối đe dọa đối với sự tự nhận thức về bản thân anh ta. Tôi dành ra một chương để thảo luận về sự tức giận ở một tên tội phạm giống như một căn bệnh ung thư di căn khiến bất cứ ai hoặc bất cứ thứ gì trên con đường của hắn đều có thể trở thành mục tiêu.
Bất kể những tổn thương về thể xác, tình cảm hay tổn thất về tài chính có lớn đến đâu, kẻ phạm tội đều tin rằng anh ta là người tốt. Những cảm xúc ủy mị và sự tàn bạo dã man luôn tồn tại song song trong cùng một cá thể. Một tội phạm hung bạo chia sẻ: “Tôi có thể thay đổi từ trạng thái khóc lóc thành lạnh lùng và ngược lại”. Điều quan trọng là phải hiểu được cách thức một tội phạm củng cố quan điểm tốt đẹp về bản thân khiến anh ta làm một việc tử tế cho ai đó nhưng ngay sau đó lại làm hại người đó. Quan điểm của tội phạm cho rằng bản thân là một người tử tế gây ra một rào cản lớn để thay đổi.
Các chuyên gia sức khỏe tinh thần đã tổng hợp các thông tin nhằm hiểu về thủ phạm của các vụ xả súng hàng loạt và các tội ác kinh hoàng khác. Trong một số trường hợp, những kẻ phạm tội này đã tiếp xúc từ trước đó với các chuyên gia sức khỏe tinh thần, những người cố gắng đánh giá, tìm hiểu và điều trị cho họ một cách vô ích. Tuy nhiên, những tội phạm như vậy rất khéo léo trong việc đánh lừa và không muốn người khác biết họ là ai. Họ thường không tiết lộ ý định thực sự của mình. Mặc dù có thể lý giải các hành vi khó hiểu và cực đoan về bệnh tâm thần, nhưng các bác sĩ tâm thần và nhà tâm lý học có trình độ thường không nhận ra rằng họ đang đối phó với kiểu tính cách được mô tả trong cuốn sách này. Bạn sẽ hiểu được nguyên nhân tại sao lại dẫn đến như vậy.
Khi các chuyên gia không thể xác định động cơ phạm tội, họ có thể kết luận rằng, về mặt pháp lý, thủ phạm bị tâm thần, không phân biệt được đúng sai, hoặc hành động mất kiểm soát. Kể từ sau ấn bản năm 2004 của cuốn sách này, tôi làm việc với tư cách là nhân chứng chuyên môn trong các vụ án với những sự biện hộ khó tin. Điều này xảy ra trong phiên tòa xét xử Lee Boyd Malvo, người ít tuổi hơn trong hai tay súng bắn tỉa khét tiếng tại Washington, DC. Trái ngược với suy nghĩ của nhiều người, việc tuyên bố trắng án với lý do biện hộ tâm thần rất hiếm gặp, và có lý do chính đáng cho điều này. Tôi sẽ thảo luận về một vụ án trong đó tôi thực sự nhận thấy bị cáo bị tâm thần, một trường hợp rất khác với các trường hợp tâm thần khác mà tôi tham gia.
Cũng có nhiều người cho rằng những người dường như có trách nhiệm và năng lực đánh giá thường bị hoàn cảnh áp lực đẩy họ đến mức “sa lưới” và phạm phải tội hoàn toàn khác biệt. Tôi chưa bao giờ thấy sự chính xác từ lời giải thích này và bạn sẽ hiểu tại sao.
Các hành động khủng bố tại Newtown, Connecticut; Aurora, Colorado; Washington, D.C., Navy Yard; và Cuộc thi Marathon Boston 2013 hẳn vẫn còn hằn sâu trong ký ức nhiều người. Cho dù hành vi giết người xảy ra ở nước ngoài hay trong nước thì một số hoạt động khủng bố nên được xem xét trong bối cảnh những người hiểu được nguyên nhân và sử dụng chúng làm phương tiện để thể hiện tính cách tội phạm đã tồn tại trước đó. Chúng tôi đã đọc những lời khai của nam giới, phụ nữ và những đứa trẻ đang trở nên “cực đoan hóa” về mặt chính trị. Để hiểu đầy đủ những gì thực sự xảy ra trong cuộc sống của họ, việc xem xét tính cách trước đó của những người tự khiến mình bị lôi kéo vào quá trình này sau đó thực hiện hành vi khủng bố là điều hết sức cần thiết.
Một cuộc thảo luận về suy nghĩ và hành vi của phạm nhân khi họ thụ án trong các cơ sở giam giữ và cải huấn sẽ đưa ra một bức tranh sống động về những gì mà nhân viên ở đó phải đối mặt hàng ngày. Ấn bản này giúp độc giả có cái nhìn sâu hơn về thế giới đó, bao gồm cách thức hoạt động của các băng đảng trong các nhà tù, trong đó những thủ lĩnh của chúng không chỉ có tầm ảnh hưởng rộng lớn bên trong nhà tù mà còn cả bên ngoài cơ Sở cải huấn.
Hiểu biết thông thường về nguyên nhân phạm tội hiện vẫn là kim chỉ nam cho nhiều người vạch ra các chính sách phòng chống tội phạm. Các nhà hoạch định chính sách lãng phí hàng tỷ đô la khi họ ngây thơ tìm cách chống lại hành vi tội phạm bằng cách loại bỏ cái gọi là “nguyên nhân gốc rễ” về môi trường xung quanh. Các chương trình sử dụng các phương pháp tiếp cận tâm lý truyền thống vẫn không đem lại hiệu quả. Ví dụ, các chương trình “kiểm soát cơn giận” được sử dụng rộng rãi nhằm giúp người phạm tội thay đổi. Tuy nhiên, những nỗ lực như vậy đều thất bại do chúng thực sự hợp pháp hóa sự tức giận. Tôi sẽ đề xuất một cách tiếp cận thay thế.
Không hề ngạc nhiên khi cuộc tranh luận về những nỗ lực giúp người phạm tội thay đổi vẫn tiếp tục căng thẳng ở Mỹ. Nhiều cơ sở đã áp dụng các khía cạnh của phương pháp mà Tiến sĩ Yochelson và tôi đưa ra cách đây nhiều thập kỷ tại bệnh viện St. Elizabeths. Quá trình này đòi hỏi phải giúp người phạm tội xác định “sai sót” trong suy nghĩ của họ, giải quyết những hậu quả nghiêm trọng do suy nghĩ đó gây ra, sau đó học hỏi và thực hiện các khái niệm mang tính sửa đổi. Với những hạn chế về ngân sách ngày càng tăng, các nguồn lực dành cho các chương trình nhằm thay đổi trong các cơ sở cải huấn tại Mỹ càng trở nên hết sức eo hẹp. Tuy nhiên, một sự thật là hầu hết đàn ông, phụ nữ và trẻ em bị giam giữ hiện nay – trong đó một số ít ngoại lệ là những người đang thi hành án chung thân không được ân xá hoặc tử hình – sẽ được thả ra đường phố Mỹ ở một thời điểm nào đó. Mặc dù một số nhỏ có thể tự thay đổi sau khi ngồi tù nhưng hầu hết sẽ không thay đổi, trong đó nhiều người sẽ bị bắt giam trở lại. Khi tìm hiểu thêm về tư duy tội phạm, chúng ta sẽ hiểu rõ hơn về họ và có thể giúp một số người phạm tội thay đổi để có một cuộc sống có ích và có trách nhiệm.
—
1. THẤT BẠI TRONG NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN TỘI PHẠM
Khi bắt đầu công việc của một nhà tâm lý học nghiên cứu lâm sàng, tôi tin rằng mọi người trở thành tội phạm phần lớn là do các yếu tố bên ngoài bản thân họ tác động. Tôi chủ yếu coi tội phạm như những nạn nhân. Khi làm việc với người thầy của mình, Tiến sĩ Yochelson, chúng tôi nhận ra quan điểm này hoàn toàn sai lầm. Chúng tôi ngày càng nghi ngờ những câu chuyện tự thỏa mãn bản thân, trong đó tội phạm biện minh cho những gì chúng đã làm bằng cách đổ lỗi cho người khác. Khi tiến hành kiểm nghiệm những lời khai của chúng và phỏng vấn những người biết rõ về chúng, chúng càng sẵn sàng hơn. Chúng tôi đã chỉnh sửa một số quan niệm, loại bỏ hoàn toàn những quan niệm khác và khám phá các chủ đề mới. Những bằng chứng mà chúng tôi đã tích lũy được sau hàng nghìn giờ phỏng vấn những tên tội phạm thuộc nhiều hoàn cảnh khác nhau đã buộc chúng tôi phải đưa những “con bò lý thuyết thiêng liêng” của mình ra đồng cỏ và giết thịt chúng. Chúng tôi tự gọi mình là “những người cải đạo bất đắc dĩ” bởi vì chúng tôi quá do dự khi từ bỏ những học thuyết, niềm tin và những gì chúng tôi học được trong khóa đào tạo chuyên môn về lý do tại sao mọi người lại trở thành tội phạm. Khi chúng tôi không còn coi tội phạm là nạn nhân, một không gian mới đã mở ra. Khi ấy, chúng tôi không còn bị ràng buộc bởi những câu hỏi “tại sao và có thể tập trung tìm hiểu sâu hơn về cách thức tư duy của tội phạm.
Chúng tôi áp dụng cách tiếp cận “vết xước trên bàn”. Bạn không cần phải biết tại sao chiếc bàn bị xước. Thay vì lo lắng về việc nó bị hư hại như thế nào, bạn cần kiểm tra chiếc bàn để xác định nó được làm bằng gì và đánh giá tình trạng xem có thể sửa chữa được hay không. Tên tội phạm đã đưa ra quyết định bằng cách nào? Kỳ vọng của anh ta về bản thân và những người khác là gì? Làm thế nào mà anh ta có thể cầu nguyện trong nhà thờ lúc 10 giờ nhưng hai giờ sau đó lại tiến hành khủng bố một chủ nhà khi đột nhập? Hành vi là sản phẩm của tư duy. Và sau nhiều nỗ lực, chúng tôi đã đặt nền móng cho phương pháp giúp người phạm tội thay đổi suy nghĩ và hành vi bằng cách tập trung vào các phương thức tư duy thay vì nguyên nhân.
Việc tìm kiếm nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội chưa có hồi kết và phần nào có thể so sánh với nỗ lực của các nhà khoa học đang tìm hiểu nguyên nhân của bệnh ung thư. Nếu chúng ta phát hiện ra nguyên nhân dẫn đến thất bại và hoảng sợ, thì bất kể tai họa là gì cũng đều có thể loại trừ. Không giống như ung thư, chúng ta không nên kỳ vọng có thể tìm ra cách chữa trị ngay cả khi xác định được “nguyên nhân gốc rễ” của tội phạm. Thay vì vạch ra các chiến lược hiệu quả để đối phó với tội phạm, việc tập trung tìm kiếm nguyên nhân đã làm xao nhãng việc tìm hiểu những kẻ phạm tội thực sự là người như thế nào.
Một quan điểm đã tồn tại trong hơn một thế kỷ qua cho rằng tội phạm là nạn nhân của các yếu tố xã hội học, tâm lý học hoặc sinh học mà họ gần như không thể hoặc không kiểm soát được. Một số nhà xã hội học cho rằng, tội phạm là một sự phản ứng có thể lý giải nhằm thích nghi và thậm chí là bình thường trước hoàn cảnh nghèo đói khắc nghiệt đã tước đi cơ hội và hy vọng của con người. Họ cũng chỉ ra cuộc sống căng thẳng và đầy cạnh tranh ở vùng ngoại ô cũng góp phần tạo nên tội phạm. Một số người quy kết tội phạm là do những giá trị trong xã hội bị đặt nhầm chỗ khiến công dân xa lánh cộng đồng, nơi làm việc và chính quyền. Các nhà tâm lý học nhấn mạnh vai trò của trải nghiệm ban đầu trong gia đình và chỉ ra những khiếm khuyết của cha mẹ là nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội. Giả thuyết này được đưa ra vào thế kỷ 19 và cho rằng tội phạm mắc chứng “rối loạn nhân cách chống đối xã hội” từ khi sinh ra. Hiện tại ở thế kỷ 21, các nhà khoa học đang quay trở lại với ý tưởng đó khi các phát hiện nghiên cứu chỉ ra cơ sở sinh học cho hành vi phạm tội.
Trong vở nhạc kịch West Side Story (tạm dịch: Câu chuyện phía Tây) năm 1957, Stephen Sondheim đã nhại lại những suy nghĩ hiện tại về nguyên nhân trẻ vị thành niên phạm pháp trong bài hát Gee, Officer Krupke. Trong bài hát đó, những kẻ phạm pháp đã bị hiểu lầm chứ không phải là không có gì tốt đẹp. Họ mắc phải một “căn bệnh xã hội” và xã hội đã “chơi [cho] một vố đau đớn”. Lời bài hát này thể hiện quan điểm rằng tội ác của họ là triệu chứng của bệnh lý tâm thần sâu sắc hoặc thiếu thốn điều kiện kinh tế xã hội. Trong một bài báo năm 1964, nhà tâm lý học nổi tiếng O. Hobart Moorer đã đặt câu hỏi liệu phân tâm học có thực sự khuyến khích “bệnh xã hội” (hiện nay chính thức được gọi là “rối loạn nhân cách chống xã hội”) bằng cách đưa ra thêm lý do cho tội phạm hay không[2]. Ông đưa ra vấn đề này trong một bài ca dân gian về tâm thần như sau:
Lúc ba tuổi, tôi không chắc về những cảm nhận với anh em của mình
Và thế là tự nhiên tôi đầu độc tất cả những người yêu thương tôi
Và bây giờ tôi cảm thấy hạnh phúc khi học được bài học từ điều đó:
Rằng mọi thứ tôi làm sai đều là lỗi của người khác.
Hoạt động tìm hiểu nguyên nhân của tội phạm bị châm biếm trong những năm 1950 và 1960 vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Các tiêu đề mới xuất hiện trên các tạp chí hay các phương tiện truyền thông mỗi ngày đều chỉ ra một nguyên nhân khác bị cáo buộc gây ra tội phạm:
- Thanh niên bất mãn đồng cảm với Kẻ bỉ ổi?[3] Hội chứng nô lệ gây ra trong Boy’s Death[4] Trò chơi bạo lực gây ra Bạo lực[5]
- Sự liên quan giữa tức giận bộc phát với tổn thương trên cơ thể[6]
- Rối loạn giấc ngủ có thể tạo tiền đề dẫn đến hung hăng[7]
- Sự liên quan giữa soda với các vấn đề hành vi ở trẻ nhỏ?[8]
- Tội phạm đang già hóa ở Nhật Bản… Cô đơn chính là thủ phạm[9]
- Kẹo gây ra bạo lực khi trưởng thành[10]
- Tội phạm bạo lực và cholesterol[11]
Nhiệm vụ xác định nguyên nhân của tội phạm trong môi trường vẫn còn đó. Tờ St. Louis PostDispatch số ra ngày 10 tháng 6 năm 2008, viết rằng, “Tội phạm có thể đã giảm trong những năm 1990 vì chì đã được loại bỏ khỏi xăng 20 năm trước đó”.[12] Trên tờ USA Today, một bài báo số ra ngày 17 tháng 7 năm 2009 có tiêu đề “10 tên em bé xấu nhất”.[13] Và một bài báo trên Science Neos ngày 2 tháng 8 năm 2013 đã trích dẫn những thay đổi trong biến đổi khí hậu có liên quan chặt chẽ đến các hành vi bạo lực trên toàn cầu.[14]
Mặc dù có vô số khía cạnh thuộc về môi trường được xác định khiến con người có hành vi phạm tội, nhưng một trong những khía cạnh tiếp tục thu hút sự chú ý của công chúng là mối liên hệ được viện dẫn giữa sự tiếp xúc với bạo lực trong giải trí[15] và hành vi bạo lực. Mối liên kết này không phải là mới. Bốn mươi hai năm trước, trong cuốn sách Seduction of the Innocent (tạm dịch: Sự quyến rũ của kẻ ngây thơ), Frederic Wertham đã mô tả truyện tranh như là “cuốn sách vỡ lòng cho tội phạm”. Phim bạo lực, chương trình truyền hình bạo lực và trò chơi điện tử bạo lực đều có liên quan đến hành vi bạo lực. Các nhà phê bình truyền thông đã đề nghị chỉnh sửa nội dung tờ báo để tránh tạo động lực cho việc thực hiện hành vi “bắt chước những vụ giết người”.
Hàng triệu người xem hành động bạo lực trong các bộ phim và chương trình truyền hình. Trong hơn 50 năm qua, khán giả yêu thích những bộ phim về James Bond đã bão hòa với bạo lực. Hàng triệu trẻ em và người lớn chơi những trò chơi điện tử bạo lực. Những người có trách nhiệm không bị biến thành kẻ giết người bởi vì những gì họ xem hoặc chơi chỉ nhằm giải trí.
Số liệu thống kê chỉ ra rằng, tội phạm bạo lực ở thanh thiếu niên đã giảm khi doanh số trò chơi điện tử tăng vọt. Tạp chí Harvard Mental Health Letter vào tháng 10 năm 2010 trích dẫn nghiên cứu chỉ ra rằng “việc sử dụng các trò chơi điện tử bạo lực có thể là một phần của sự phát triển bình thường, đặc biệt là ở các bé trai – và cũng là một cách giải trí hợp pháp”.[16] Và khi Tòa án Tối cao ra phán quyết vào tháng 6 năm 2011 rằng các trò chơi điện tử cần có sự bảo vệ của quyền tự do ngôn luận, Tòa cũng lưu ý, nghiên cứu tâm lý về trò chơi điện tử bạo lực vẫn có những thiếu sót về phương pháp luận.[17]
Bắt chước hành vi phạm tội đã thực sự xảy ra. Ngày 25 tháng 1 năm 2014, một người đàn ông giết chết hai người và làm bị thương một người khác tại một trung tâm mua sắm ở Columbia, Maryland. Tờ Baltimore Sun đưa tin, “trận giết chóc” được “lấy cảm hứng từ vụ xả súng ở trường trung học Columbine năm 1999” ở Colorado.[18] Kẻ xả súng đã chờ đến chính xác thời điểm diễn ra vụ thảm sát ở Columbine để nổ súng. Hắn ta bắt chước một trong những kẻ giết người ở Columbine đặt súng vào miệng và bóp cò. Vụ xả súng khét tiếng ở Colorado vẫn còn lưu lại trong tâm trí hàng triệu người. Điều này cũng xảy ra với các vụ xả súng hàng loạt sau đó tại rạp chiếu phim Aurora, Colorado; tại Trường Tiểu học Sandy Hook ở Newtown, Connecticut; và tại Navy Yard ở Washington, DC. Hàng triệu người biết về những sự kiện khủng khiếp này thông qua các phương tiện truyền thông sẽ không bao giờ nghĩ đến việc bắt chước những tội ác như vậy. Điều quan trọng không phải là những gì trên phim ảnh hay màn hình ti vi, trên báo chí hay trong trò chơi điện tử, mà là cấu tạo tâm lý của những người xem các chương trình truyền hình, xem phim, hoặc chơi các trò chơi đó.
Trong giới khoa học, các cuộc thảo luận về nguyên nhân của tội phạm ngày càng phức tạp hơn, trong đó hiếm có một yếu tố cụ thể nào được coi là “nguyên nhân” của tội phạm. Thay vào đó, các nhà khoa học xã hội đưa mọi thứ vào thành một mớ hỗn độn và đề cập đến “các yếu tố nguy cơ” và tội phạm như là một hiện tượng “xã hội – tâm lý – sinh học”.
Tại sao lại có sự tập trung liên tục vào nguyên nhân của tội phạm? Kevin Dowling, nhà điều tra tội phạm và thành viên của cơ quan Mật vụ Hoa Kỳ, đưa ra bình luận về quan điểm thiếu độ tin cậy khi cho rằng các chu kỳ của mặt trăng gây ra “tác động có thể định lượng được” đối với tỷ lệ bạo lực gia đình.[19] Ông giải thích rằng quan niệm như vậy xuất phát từ nhu cầu sâu xa của con người cần phải tìm kiếm các phương thức có thể nhận biết được trong trải nghiệm của chúng ta và kiểm soát mọi thứ trong một thế giới hỗn loạn khác. Nói cách khác, nếu nghĩ rằng bản thân biết nguyên nhân của những rắc rối, chúng ta sẽ cảm thấy tốt hơn ngay cả khi chúng ta không thể tác động nhiều đến nó.
Không có yếu tố đơn lẻ hoặc bộ điều kiện nào giải thích đầy đủ nguyên nhân của hành vi phạm tội. Trong cuốn sách về hành vi phạm pháp ở lứa tuổi vị thành niên, nhà xã hội học Robert Morrison MacIver tuyên bố: “Việc hỏi tại sao hành vi phạm pháp lại xảy ra cũng giống như hỏi tại sao bản chất con người là như vậy”[20]. Câu nói này được đưa ra năm 1966 và được áp dụng nhiều ngày nay. Mặc dù lĩnh vực “tội phạm thần kinh” đang nổi lên có thể làm sáng tỏ nguồn gốc của tội phạm, nhưng có lẽ chúng ta vẫn chưa thể giải thích đầy đủ về nguyên nhân như những thập kỷ trước.