Cuốn sách “Tôi, Charley và hành trình nước Mỹ” của John Steinbeck không chỉ là một câu chuyện phiêu lưu đơn thuần, mà còn là một hành trình khám phá bản sắc nước Mỹ đầy ý nghĩa.
Tác giả rong ruổi khắp mọi miền đất nước, từ Bắc Dakota cho đến Nam Texas, từ California quay trở về New York, cùng chú chó Charley đồng hành. Mỗi nơi ông đi qua đều hiện lên với những nét đặc trưng riêng biệt, góp phần tạo nên bức tranh đa dạng và đầy màu sắc về nước Mỹ.
Hơn cả một hành trình rong ruổi, đây là một cuộc tìm kiếm bản sắc, một nỗ lực để hiểu rõ hơn về con người và đất nước Mỹ. Qua những trang viết đầy suy tư và chiêm nghiệm, Steinbeck đã khơi gợi trong lòng người đọc niềm đam mê khám phá và tình yêu quê hương.
Đọc “Tôi, Charley và hành trình nước Mỹ”, bạn sẽ cảm nhận được:
- Niềm say mê khám phá: Tác giả đã truyền tải niềm đam mê mãnh liệt với những cung đường mới, những vùng đất mới, khơi gợi trong lòng người đọc khao khát được phiêu lưu và trải nghiệm.
- Tình yêu quê hương: Qua những miêu tả chân thực và sinh động, Steinbeck đã thể hiện tình yêu sâu sắc dành cho đất nước và con người Mỹ.
- Cái nhìn sâu sắc về xã hội: Cuốn sách không chỉ là hành trình khám phá địa lý, mà còn là hành trình khám phá con người và xã hội Mỹ, với những vấn đề và góc khuất được phơi bày một cách chân thực.
- Phong cách viết độc đáo: Giọng văn giản dị, mộc mạc nhưng đầy chất thơ của Steinbeck đã tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt cho tác phẩm.
Mời các bạn đón đọc Tôi, Charley Và Hành Trình Nước Mỹ của tác giả John Steinbeck.
—
LỜI GIỚI THIỆU
Người Mỹ hiện sống ra sao? Nước Mỹ bây giờ thực sự là như thế nào? Đây là những câu hỏi mà nhà văn đoạt giải Nobel của Mỹ John Steinbeck tự hỏi mình ở tuổi 58. Để trả lời các câu hỏi đó, ông quyết định lái một chiếc xe tải rong ruổi khắp nước Mỹ, từ thành phố New York bên bờ Đông, xuyên qua đồng bằng lớn miền Trung, qua vùng núi Montana, sang California ở bờ Tây, đi dọc bờ biển miền Tây xuống Texas ở phía nam, đi xuyên các bang miền Nam, rồi trở lại New York. Đấy là một hành trình gần mười sáu ngàn cây số mà John Steinbeck gọi là hành trình “đi tìm nước Mỹ”. Ông chỉ có một người bạn đồng hành duy nhất là con chó xù Charley.
John Steinbeck tìm thấy có lẽ không phải một nước Mỹ mà là rất nhiều nước Mỹ trên cùng mảnh đất Mỹ. Ông thấy không phải một khái niệm “người Mỹ” đồng nhất mà là rất nhiều người Mỹ khác nhau – khác ở địa lý sống, ở sự giàu nghèo, ở niềm tin tôn giáo, ở quan điểm chính trị, ở quan niệm về “giấc mơ Mỹ” và “giá trị Mỹ”. Và như thế, tuy “tìm nước Mỹ” nhưng đây cũng là hành trình John Steinbeck tìm hiểu chính bản thân mình khi ông, với tư cách một nhà văn, đối diện với những người đồng bào đa dạng của mình, những phong cảnh thiên nhiên và thực trạng xã hội phức tạp của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Ông cũng tìm thấy mình trong lúc ông, với tư cách một con người, đối mặt với những khó khăn khi rong ruổi ba tháng liên tục trên đường ở một tuổi không còn trẻ, với một con chó vừa là bạn đồng hành trung thành nhưng cũng có lúc giống một đứa bé khó chiều.
Đọc Tôi, Charley, và hành trình nước Mỹ, bạn sẽ đồng hành với Steinbeck trong việc tìm kiếm nước Mỹ cũng như tìm hiểu bản thân ông; và có thể bạn cũng sẽ tìm kiếm được mình trong sự đồng vọng với hành trình của một nhà văn đã luôn đứng về phía những người lao động, đã thấy tổ quốc mình tồn tại không phải ở các địa danh mà trước hết, và quan trọng nhất, ở những con người đã lựa chọn mảnh đất này làm nơi sinh sống và, dù khác nhau, đều chỉ đang cố gắng thực hiện một hành trình tồn tại xứng đáng nhất.
Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc cuốn Tôi, Charley và hành trình nước Mỹ của John Steinbeck qua bản dịch của dịch giả Tuấn Việt.
Ngô Bảo Châu & Phan Việt
—
Khi tôi còn thơ trẻ, lòng mơ tưởng những phương trời xa xăm; người lớn bảo tôi rằng để chữa chứng ngứa ngáy đôi chân thì phải trưởng thành lên thôi. Đến khi năm tháng biến tôi thành gã trưởng thành, món thuốc trị ngứa hóa ra lại là tuổi trung niên. Đến tuổi trung niên, người ta lại bảo cần thêm nhiều tuổi nữa mới xoa dịu được cơn sốt ấy. Và giờ đây, khi tôi đã năm mươi tám tuổi đầu, có lẽ chăng sức khỏe sẽ là thang thuốc cuối cùng? Thế mà vẫn chẳng có món thuốc nào linh nghiệm cả. Còi tàu rúc lên đủ bốn tiếng là tóc gáy tôi cứ sởn hết cả lên, đôi chân tôi lại một phen nhấp nhổm. Cứ nghe tiếng máy bay, tiếng động cơ khởi hoạt, thậm chí đến tiếng vó ngựa lốc cốc trên mặt đường là tôi lại chứng nghiệm cái rùng mình muôn thuở, miệng khô khốc, đôi mắt xa xăm, lòng bàn tay ran nóng, cái nôn nao từ bụng dâng cả lên lồng ngực. Nói tóm lại, tôi vẫn cứ như xưa. Nói nôm na, đã lang bạt một thời thì cả đời lang bạt. Tôi e rằng căn bệnh đó là bất trị mất rồi. Tôi nêu cớ sự này, chẳng phải để răn đe ai đó mà chỉ là để bảo ban chính mình mà thôi.
Khi con virus lang bạt bắt đầu gặm nhấm gã đàn ông ương bướng, và con đường từ Chốn Này như thênh thang, như thẳng tắp, như ngọt ngào, thì gã nạn nhân ấy trước hết phải tìm cho mình một lý do hợp tình hợp lẽ để mà ra đi. Với một gã lang bạt bất trị thì chuyện này thật quá dễ. Hắn có cả một rừng lý do để mà lựa chọn. Kế tiếp, hắn phải lên kế hoạch thời gian và nơi chốn, chọn hướng, chọn đích. Và cuối cùng, hắn phải tính toán cuộc hành trình. Đi cách nào, mang theo gì, ở bao lâu. Công đoạn này là nhất thiết, là sống còn. Tôi nêu nó ra đây để những kẻ mới mò mẫm đến lang bạt xứ – ví như các cô cậu thiếu niên đang ngấp nghé trước thềm ải khổ – không tưởng lầm rằng mình đã phát minh ra nó.
* * *
Một khi hành trình được thiết kế, trang bị, xúc tiến xong thì lại có thêm một nhân tố nữa vào cuộc, chiếm lấy thế thượng phong. Mỗi chuyến du hành, rong ruổi, thám hiểm đều là một thực thể riêng, chẳng chuyến đi nào giống chuyến đi nào. Chúng có cá tính, tính cách, sự cá biệt, sự độc đáo riêng. Hành trình là chính con người, làm gì có ai giống ai? Và tất cả những kế hoạch, những phòng bị, những kiểm tra, những cưỡng thúc đều chẳng ích lợi gì. Sau nhiều năm vật vã, ta chợt nhận ra rằng ta đâu có “làm” cuộc hành trình nào, mà chỉ có những cuộc hành trình “làm” chúng ta mà thôi. Những toan tính, kế hoạch, việc đặt chỗ, tiền nong và những thứ buộc phải làm khác đều chẳng là gì cả trước cá tính của mỗi chuyến đi. Chỉ khi nhận ra điều đó, gã lang bạt mới có thể thư giãn và thuận theo với nó. Chỉ khi đó, mọi nỗi thất vọng mới tan biến. Khi đó, hành trình sẽ giống như cuộc hôn nhân. Bạn sai mười mươi nếu cứ nghĩ mình khống chế được nó. Tôi cảm thấy thật dễ chịu khi nói ra điều này, mặc dù chỉ những ai từng trải mới có thể hiểu được.
Kế hoạch của tôi rất rõ ràng, cụ thể và hợp lý, tôi cho là như thế. Suốt bao năm trời tôi đã bôn ba khắp thế giới. Tại Mỹ, tôi sống ở New York hoặc quanh quẩn ở Chicago hay San Francisco. Nhưng New York đâu còn là Mỹ nữa, tựa như Paris không còn là Pháp và London không còn là Anh vậy. Chính vì thế mà tôi nhận ra tôi chẳng biết gì về đất nước của mình. Tôi, một nhà văn Mỹ chuyên viết về nước Mỹ… Thế mà tôi vẫn chỉ biết cậy nhờ vào trí nhớ, mà trí nhớ thì giỏi lắm cũng chỉ là một kho chứa lệch lạc, méo mó. Tôi chưa từng nghe giọng nói của nước Mỹ, chưa từng ngửi mùi cỏ cây và cống rãnh, thấy sông hồ đồi núi cùng những sắc màu và ánh sáng của đất nước mình. Tôi chỉ biết đến những thay đổi của nó qua sách báo. Nhưng điều tệ hại hơn là tôi đã không cảm được đất nước tôi trong suốt hai mươi lăm năm trời. Nói tóm lại, tôi đã viết những thứ mình không biết, và với một gã được coi là nhà văn như tôi thì điều đó có khác gì tội ác. Hai mươi lăm năm gián đoạn đã làm trí nhớ tôi bị méo mó mất rồi.
Một lần nọ, tôi phiêu du trên một xe bán bánh mì lưu động, loại xe hai cửa, sàn trải nệm. Tôi dừng lại ở nơi có người dừng lại hay tụ tập. Tôi nghe, nhìn, cảm nhận và từ đó tôi có được một hình ảnh về đất nước tôi, mà nếu rủi như nó chưa được chuẩn xác thì đó chỉ là do sự kém cỏi của tôi mà thôi.
Thế là tôi quyết định xem xét lại, khám phá lại cái đất nước khổng lồ này. Nếu không làm thế thì khi viết lách tôi sẽ không cách gì mô tả được những sự thực nho nhỏ, vốn dĩ là nền tảng của một sự thực to lớn hơn. Một khó khăn lớn bỗng lù lù xuất hiện. Sau hai mươi lăm năm gián đoạn, cái tên của tôi đã trở nên khá nổi tiếng. Theo kinh nghiệm của tôi thì khi ai đó được nhiều người biết tiếng, dù là tiếng tốt hay tiếng xấu, thì họ cũng sẽ thay đổi. Sự dè dặt hay những phẩm chất nào đó do danh tiếng tạo ra sẽ khiến họ không còn giống với chính mình nữa. Chính vì vậy mà tôi buộc phải bỏ lại ở nhà cả tên tuổi lẫn danh tính của mình. Tôi phải luôn giương mắt, vểnh tai tựa như một đám thạch trên đĩa. Tôi không thể ký vào các tờ khai ở khách sạn, không thể gặp người quen, phỏng vấn ai đó, hay thậm chí đưa ra những câu hỏi tìm hiểu. Hơn nữa, cứ có hai người trở lên là hệ sinh thái phức tạp của một khu vực nào đó lại bị xáo trộn. Do đó, tôi phải đi một mình và hết sức kiềm chế, vào vai một chú rùa bình thường, gánh trên lưng cả ngôi nhà của mình.
Với tất cả những thứ đó trong đầu, tôi viết thư gửi đến trụ sở chính của một công ty lớn chuyên chế tạo xe tải.
Tôi nêu rõ mục đích và nhu cầu của mình. Tôi muốn có một chiếc xe bán tải[1] loại ba phần tư tấn có thể đi khắp mọi nơi trong điều kiện khắc nghiệt nhất, và trên xe tải đó tôi muốn có một ngôi nhà be bé giống như ca-bin của một chiếc thuyền nhỏ. Loại xe rơ-moóc thì rất khó lái trên đường núi, lại không cách gì đỗ được – thường là do bị cấm đỗ – và bị đủ thứ hạn chế khác. Sau một thời gian, họ gửi tài liệu kỹ thuật đến. Nó mô tả một chiếc xe chắc chắn, nhanh, tiện nghi, có một ca-bin dã ngoại gắn bên trên – một ngôi nhà nhỏ với chiếc giường đôi, chiếc bếp bốn lò, máy sưởi, tủ lạnh, những ngọn đèn bu-tan, bồn cầu dùng hóa chất tự hoại, tủ áo, kho chứa, cửa sổ gắn lưới ngăn côn trùng – chính xác như tôi mong muốn. Đến hè, nó được giao đến nơi câu cá be bé của tôi ở Sag Harbor, ở gần mạn cuối Long Island. Mặc dù tôi không định khởi hành trước ngày lễ Lao động, khi cả nước rút ra khỏi cuộc sống bình thường, nhưng tôi rất muốn làm quen với chiếc mai rùa của mình, trang bị đồ đạc cho nó và tìm hiểu về nó. Xe được đưa đến vào tháng Tám. Một món hàng đẹp, tuy mạnh mẽ mà vẫn mềm mại. Lái nó chẳng khó hơn là bao so với lái xe thường. Và vì chuyến đi của tôi đã làm khơi dậy một vài nhận xét châm biếm nơi bạn bè, nên tôi đặt tên cho nó là Rocinante, mà chắc các bạn cũng biết là tên con ngựa của Don Quixote[2].
Do tôi chẳng giấu giếm gì về dự định của mình nên một vài tranh luận đã nảy sinh trong số các bạn bè và nhà tư vấn của tôi (Một chuyến đi được lên kế hoạch làm sao tránh khỏi làm phát sinh ra những nhà tư vấn?). Họ nói rằng nhà xuất bản của tôi đã phát tán ảnh tôi tùm lum ra khắp nơi mất rồi, cách gì tôi đi đâu mà không bị nhận mặt. Xin thưa rằng, trong suốt hơn mười sáu ngàn cây số qua ba mươi bốn tiểu bang, tôi đã không một lần bị nhận ra. Tôi tin rằng người ta chỉ nhận ra mọi thứ trong bối cảnh của chúng mà thôi. Ngay cả những người có thể biết đến tôi trong cuộc sống hiện nay vẫn không cách nào nhận ra tôi trong chiếc Rocinante.
Tôi được tư vấn rằng nếu sơn cái tên Rocinante lên hông xe theo kiểu chữ Tây Ban Nha thế kỷ mười sáu thì nhất định tôi sẽ khơi lên sự tò mò và nghi vấn ở vài nơi. Chả biết có bao nhiêu người biết đến cái tên này, nhưng chắc chắn là đã chẳng có ai hỏi han gì về nó.
Kế tiếp, người ta bảo tôi rằng một kẻ lạ mặt mà đi lang thang như thế thì có thể sẽ gây thắc mắc hay thậm chí nghi ngờ. Vì lẽ đó mà tôi dắt trên xe một khẩu súng săn, hai khẩu súng trường và vài chiếc cần câu. Bởi theo kinh nghiệm của tôi thì khi một người đàn ông đi săn bắn hoặc câu cá thì mục đích của anh ta là rõ ràng và có khi lại còn được hoan hô nữa ấy chứ. Thật ra, những ngày săn bắn của tôi đã qua đi lâu rồi. Tôi không còn giết hay bắt bất cứ con vật nào không lọt vừa chiếc chảo rán. Tôi đã quá già để chơi môn thể thao giết chóc đó. Nhưng hóa ra sự cẩn tắc này cũng chả cần thiết.
Người ta cũng bảo rằng bảng số xe New York có thể sẽ gây chú ý và tò mò, vì nó là dấu hiệu nhận diện bề ngoài duy nhất của tôi. Và quả thế thật, trong cả chuyến đi đã có đến hai ba chục lần tôi gặp phải những thắc mắc về nó. Nhưng những tò mò này luôn được tiếp nối bởi một mẫu hình bất biến, đại loại là như sau.
NGƯỜI ĐÀN ÔNG ĐỊA PHƯƠNG: “New York hả?”
TÔI: “Chính xác”.
NGƯỜI ĐÀN ÔNG ĐỊA PHƯƠNG: “Tôi đã đến đó hồi năm 1938… Hay ba mươi chín nhỉ? Alice, mình đến New York năm ba tám hay ba chín hả bà?”
ALICE: “Năm ba sáu lận, ông ơi! Tôi còn nhớ vì đó là năm Alfred chết”.
NGƯỜI ĐÀN ÔNG ĐỊA PHƯƠNG: “Tóm lại là tôi không ưa nơi đó. Có cho tiền tôi cũng chẳng đến đó sống”.
Một số người thành thật lo lắng về việc tôi đi du lịch một mình sẽ dễ bị tấn công, bị cướp bóc, bị hành hung.
Ai mà chả biết đường sá của chúng ta đầy rẫy những hiểm nghèo. Về chuyện này thì thú thật tôi đã lo lắng vô nghĩa. Đã vài năm rồi tôi sống một mình, không tên tuổi, không bạn bè, không có bất cứ sự an toàn nào mà người ta có được từ gia đình, bè bạn và những người cùng cánh. Nhưng hiểm nguy thì chẳng thấy đâu cả. Chỉ đơn giản là một cảm giác ban đầu rất cô đơn, rất tuyệt vọng – một thứ cảm giác cô độc. Vì lẽ đó, tôi mang theo một người bạn đồng hành trong hành trình của mình – một con chó xù Pháp[3] hào hoa dù đã già nua có tên là Charley. Tên đầy đủ của nó là Charles le Chien[4]. Nó ra đời tại Bercy ở ngoại ô Paris và được dạy dỗ bằng tiếng Pháp. Cho nên dù có biết chút ít tiếng Anh-chó xù, nó vẫn chỉ phản ứng nhanh nhạy trước các mệnh lệnh bằng tiếng Pháp. Còn như không phải tiếng Pháp thì nó phải phiên dịch ra, vì thế mà chậm chạp hẳn đi. Nó là một con chó xù rất lớn, mang một màu tạm gọi là màu xanh, và nó chỉ màu xanh khi nào sạch sẽ mà thôi. Charley là một nhà ngoại giao bẩm sinh. Nó thích thương lượng hơn là đánh nhau, và như thế là chí phải vì vốn dĩ nó đánh đấm rất tồi. Chỉ một lần duy nhất trong mười năm cuộc đời nó gặp rắc rối – đó là khi nó đụng phải một con chó không thích thương lượng. Thế là Charley bị mất một mẩu tai bên phải. Nhưng nó là một con chó giữ nhà rất tốt, tiếng nó rống lên nghe cứ như sư tử gầm, thật là phù hợp để răn đe những kẻ lang thang ban đêm, mặc dù nó chẳng cắn ai và chỉ là một thứ hổ giấy mà thôi. Charley là một người bạn, một người đồng hành tốt. Nó thích đi du lịch hơn bất cứ việc gì mà nó có thể hình dung. Nếu nó xuất hiện thường xuyên trong suốt câu chuyện này thì đó là vì nó đóng góp rất nhiều cho cuộc hành trình. Chó – đặc biệt là loại chó ngoại như Charley – luôn là cầu nối với những người xa lạ. Rất nhiều cuộc trò chuyện đã bắt đầu từ câu hỏi: “Nó thuộc giống chó gì vậy nhỉ?”
Kỹ thuật mở đầu câu chuyện ở đâu cũng như nhau. Từ lâu tôi đã biết và nhiều lần chứng nghiệm rằng cách tốt nhất để thu hút sự chú ý, sự giúp đỡ, sự đối thoại là… bị lạc. Dù là một gã đàn ông thấy mẹ mình chết đói giữa đường mà vẫn đá vào bụng bà để mở đường mà đi, thì hắn ta vẫn cứ hân hoan dành nhiều giờ đồng hồ thời gian của mình để chỉ vẽ những hướng đi trật lất cho một người hoàn toàn xa lạ, chỉ cần người này tự nhận là mình đi lạc.
Dưới tán cây sồi lớn ở chỗ tôi tại Sag Harbor, Rocinante đang “an tọa”, bảnh bao và tự tại. Những người hàng xóm đến thăm nó, một số người tôi chẳng hề quen biết. Tôi thấy trong mắt họ điều mà tôi thấy đi thấy lại nhiều lần ở mọi nơi trên đất nước này: một khát vọng cháy bỏng được ra đi, được di chuyển, được lên đường, đến bất cứ nơi đâu, miễn là xa khỏi cái Chốn Này của họ. Họ thì thầm với nhau rằng họ ước sẽ ra đi vào một ngày nào đó. Một cách tự do, không có gì níu giữ, không hướng về nơi nào mà là rời xa khỏi chốn nào. Tôi thấy những ánh mắt ấy và nghe những lời ao ước ấy ở bất cứ bang nào mà tôi đã đi qua. Hầu như tất cả mọi người Mỹ đều thèm khát ra đi. Một cậu bé chừng mười ba tuổi ngày nào cũng ghé qua. Nó bẽn lẽn đứng cách xa, dõi mắt nhìn Rocinante. Nó đăm đăm nhìn cánh cửa, nằm cả xuống đất để ngắm nghía bộ nhíp khỏe khoắn. Một cậu nhóc thật lặng lẽ và dai dẳng. Nó đến cả vào ban đêm để ngắm nghía Rocinante. Sau một tuần lễ, nó chịu đựng hết nổi nữa. Những lời lẽ của nó liều lĩnh đánh vật để thoát khỏi sự thẹn thùng. Nó nói, “Nếu bác cho cháu đi theo, cháu sẽ làm mọi thứ. Cháu sẽ nấu nướng, rửa hết chén đĩa, làm tất tật mọi việc và cháu sẽ chăm sóc bác”.
Rủi thay tôi lại biết rõ nỗi khát khao của nó. Tôi nói, “Bác cũng muốn lắm chứ. Nhưng ban giám hiệu nhà trường và cha mẹ cháu và nhiều người khác nữa sẽ không cho phép bác”.
“Cháu sẽ làm mọi việc”, nó nói. Và tôi cũng tin là như thế. Tôi nghĩ nó sẽ chẳng bỏ cuộc cho đến khi tôi lái xe đi mà không mang theo nó. Nó có giấc mơ mà tôi đã có trong suốt cả cuộc đời, và giấc mơ đó không cách nào chữa trị được.
Trang bị cho Rocinante là cả một quá trình lâu la và thú vị. Tôi mang theo quá nhiều thứ mà không biết thực ra mình cần những thứ gì. Đồ nghề cho những lúc khẩn cấp, tời, một chiếc ròng rọc, một chiếc xẻng và một cây xà-beng để làm, để sửa hay để chế ra thứ gì đó. Rồi đến thực phẩm cho tình trạng khẩn cấp. Tôi có thể đi khuya ở vùng Tây Bắc và bị mắc kẹt trong tuyết. Tôi chuẩn bị cho ít nhất một tuần lễ gặp nạn. Nước thì dễ rồi: Rocinante có một bồn chứa đến một trăm mười bốn lít.
Tôi nghĩ tôi sẽ viết lách gì đó dọc đường, có lẽ là những bài tiểu luận, chắc chắn là những ghi chép, và dĩ nhiên là những lá thư. Tôi mang theo giấy, giấy than, máy đánh chữ, bút chì, sổ tay. Và không chỉ có thế mà còn cả những cuốn từ điển, một bách khoa toàn thư loại tinh gọn, và một tá những cuốn sách tra cứu khác, những thứ rất nặng. Có vẻ như khả năng tự lừa dối bản thân của chúng ta là không có giới hạn. Tôi biết thừa rằng tôi rất hiếm khi ghi chép, và nếu có ghi đi nữa thì tôi cũng để lạc mất hay không thể đọc được. Từ kinh nghiệm của ba mươi năm làm nghề, tôi cũng thừa biết mình không thể viết về một sự kiện nóng. Tôi phải chờ cho sự kiện đó lên men. Tôi phải làm điều mà các bạn tôi vẫn hay nói là “kềm cương con ngựa” cho đến khi nó dịu đi. Thế mà bất chấp sự hiểu biết về bản thân đó, tôi vẫn cứ trang bị cho Rocinante những vật liệu để viết lách, đủ để tạo ra một bộ sách mười tập. Tôi còn mang theo lượng sách nặng sáu mươi tám ký mà trước đây tôi đã chẳng mấy khi có thời giờ để đọc và dĩ nhiên sắp tới cũng vậy. Thức ăn đóng hộp, bao đựng súng săn, đạn súng trường, những hộp đồ nghề, và quá xá quần áo, chăn gối, quá chừng giày ống, đồ lót nylon chần cho nhiệt độ dưới không, đĩa và ly nhựa cùng một bồn rửa chén bằng nhựa, một két dự trữ khí đốt đóng chai. Những chiếc nhíp bị chất đồ lên cứ hạ xuống thấp dần, thấp dần. Giờ thì tôi ước tính mình đang mang theo nhiều hơn bốn lần mức cần thiết.
Giờ đây, Charley đã trở thành một con chó biết đọc suy nghĩ. Đời nó đã chứng kiến nhiều chuyến du hành, mà thường là nó bị bỏ lại ở nhà. Nó biết lần này sẽ rất lâu trước khi những chiếc va-li xẹp đi. Và thế là nó bắt đầu chạy lăng quăng, lo lắng, rên rỉ, tựa như mắc chứng cuồng loạn thể nhẹ dù nó là một con chó đã già. Trong suốt những tuần lễ chuẩn bị, nó suốt ngày quẩn chân tôi, gây ra những phiền toái chết tiệt. Nó trốn cả vào trong xe, trườn vào đó và cố làm cho ra vẻ nhỏ nhắn lắm vậy.
Lễ Lao động đến gần, ngày trọng đại mà hàng triệu đứa trẻ sẽ từ trường trở về nhà và hàng triệu phụ huynh sẽ rút khỏi các xa lộ. Tôi đã sẵn sàng để lên đường sớm nhất, ngay sau cái ngày đó. Vậy mà vào khoảng thời gian này lại có thông báo rằng bão Donna đang ồ ạt rời biển Caribe tràn về hướng chúng tôi. Ở phần chóp của Long Island, chúng tôi đã quá dày dạn với chuyện này để cảnh giác một cách cao độ. Cơn bão đến gần, chúng tôi chuẩn bị đối phó với một cuộc vây hãm. Cái vịnh bé nhỏ của chúng tôi được bảo vệ khá vững chắc, nhưng cũng chưa đủ để chống bão. Khi Donna trườn đến, tôi đổ đầy dầu vào các cây đèn dầu, gắn chiếc bơm tay vào giếng nước và cột chặt tất cả những thứ gì có thể di chuyển. Tôi có một chiếc tàu ca-bin dài hai mươi mét, chiếc Fayre Eleyne. Tôi đóng các cánh cửa của nó lại, lôi nó ra giữa vịnh, hạ thủy chiếc neo móc khổng lồ kiểu cổ cùng sợi xích mười ba ly, rồi cột cho nó đong đưa một khoảng dài. Với các biện pháp như thế, nó có thể cưỡi một cơn bão có tốc độ gió hai trăm bốn mươi km/h, trừ phi phần mũi của nó bị bứt neo.
Donna tràn tới. Chúng tôi lôi ra chiếc radio dùng pin để nghe tin tức, vì điện có thể bị cúp nếu Donna giáng đòn. Nhưng hãy còn thêm một nỗi lo khác. Đó là Rocinante tọa lạc giữa các cây cao. Trong một cơn ác mộng kinh hoàng, tôi thấy một thân cây đổ lên chiếc xe và đè nó “bẹp gí giống như một con bọ”. Tôi bèn lôi nó ra khỏi chỗ có thể bị cây đè, nhưng điều này không có nghĩa là nguyên một ngọn cây không thể bay xa bốn mươi lăm mét và rơi đè lên nó.
Sáng sớm, đài báo cơn bão đang chuẩn bị tới. Đến khoảng mười giờ, đài lại báo mắt bão sẽ đi qua chỗ chúng tôi và nó sẽ đến vào lúc 1giờ 07 phút, chính xác đến vậy đó. Khu vịnh chỗ chúng tôi vẫn tĩnh lặng, không có lấy một gợn sóng, nhưng nước còn đục lắm và chiếc Fayre Eleyne thì vẫn bồng bềnh một cách duyên dáng ở nơi mà nó neo đậu.
Vịnh biển chỗ chúng tôi được che chắn vào hàng tốt nhất nên rất nhiều tàu thuyền nhỏ cũng kéo tới để neo đậu. Tôi lo ngại khi thấy nhiều chủ tàu không biết cách cột tàu. Cuối cùng có hai con tàu đi tới, trông xinh lắm, chiếc nọ dắt chiếc kia. Một chiếc neo nhẹ được thả xuống rồi chúng được bỏ lại, phần mũi của chiếc này được móc vào đuôi của chiếc kia và cả hai nằm trong khoảng đong đưa của Fayre Eleyne. Tôi vớ lấy chiếc loa ở cuối cầu tàu, cất tiếng phản đối sự điên rồ này, nhưng những chủ nhân của chúng hoặc là không nghe thấy, hoặc là không biết, hoặc là chả quan tâm.
Gió ập tới vào lúc đã dự báo, xé mặt nước như xé tấm vải đen. Nó giộng xuống như một quả đấm. Nguyên phần ngọn của một cây sồi đổ ụp xuống, sượt qua ngôi nhà gỗ nơi chúng tôi đang đứng quan sát. Đợt gió to kế tiếp làm bật tung một cửa sổ lớn của ngôi nhà gỗ. Tôi ra sức đóng chúng lại rồi dùng rìu đóng nêm chặn cả phần trên lẫn phần dưới. Điện và điện thoại bị cúp ngay từ đợt gió đầu, đúng như chúng tôi tiên liệu. Và cơn thủy triều cao hai mét rưỡi cũng đã được đoán trước. Chúng tôi quan sát gió càn quét mặt đất và mặt biển như một đàn chó săn từ đâu lao tới. Cây cối chao đảo, ngả nghiêng như ngọn cỏ, và mặt nước bị quất đập làm dậy lên cả một màn sương bọt nước. Một con tàu bị bứt dây, trôi tuột lên bờ, rồi tiếp đến là con tàu thứ hai. Những ngôi nhà xây vào mùa xuân tốt lành và đầu mùa hạ đón nhận những cơn sóng đập vào các cửa sổ tầng hai. Ngôi nhà gỗ của chúng tôi nằm trên ngọn đồi nhỏ cách mặt nước đến hơn chín mét. Nhưng ngọn triều dâng vẫn nhấn chìm cầu tàu của tôi. Khi gió đổi hướng, tôi dời Rocinante sang chỗ khác để tránh cho nó nằm dưới hướng gió thổi qua các cây sồi lớn. Chiếc Fayre Eleyne vẫn lịch lãm nổi bồng bềnh, đong đưa như chiếc chong chóng gió xuôi theo những cơn gió đổi chiều. Lúc này thì các con tàu cột vào nhau đang nhộn nhạo cả lên, dây thừng dưới chân vịt và bánh lái cứ va đập và cọ xát vào hai thân tàu. Một con tàu khác lôi chiếc neo của nó trèo lên tận bờ biển sình lầy.
Chó Charley chẳng thể hiện cảm xúc nào. Tiếng súng hay tiếng sấm, tiếng nổ hay tiếng gió rít, nó tuyệt đối chả quan tâm. Giữa cơn bão gầm rú, nó tìm một nơi ấm áp dưới gầm bàn đánh một giấc say sưa.
Gió lặng đi cũng đột ngột như lúc nó bùng lên. Mặc dù sóng vẫn tiếp tục lạc nhịp nhưng chúng không còn bị gió khuấy động, và thủy triều cứ dâng cao, dâng cao lên nữa. Tất cả những cầu tàu quanh chiếc vịnh nhỏ của chúng tôi đều bị nhận chìm dưới nước, chỉ còn nhú lên những chiếc cọc và tay vịn. Sự tĩnh lặng nghe cứ như một âm thanh cuống cuồng. Nhà đài thông báo chúng tôi đang ở trong mắt bão Donna. Sự yên ắng đáng sợ giữa cơn bão quay cuồng. Tôi chẳng biết bao lâu nữa sự tĩnh lặng này mới kết thúc. Có vẻ như sẽ phải còn chờ đợi rất lâu. Và rồi, mé bên kia giáng tới: gió đảo chiều. Chiếc Fayre Eleyne vẫn ngọt ngào đong đưa, hướng mũi về phía gió. Nhưng hai con tàu cột vào nhau đã lôi neo sà tới Fayre Eleyne và móc vào nó. Nó bị lôi đi, cố chống trả hướng gió và bị xô tới một cầu tàu bên cạnh. Chúng tôi nghe được cả tiếng nó kêu réo khi thân của nó bị dồn nén vào những cây cọc bằng gỗ sồi. Lúc này tốc độ gió được ghi nhận là trên 153km/h.
Tôi thấy mình đang chống chọi với gió, chạy bọc ra đầu vịnh, hướng về chiếc cầu tàu nơi các con tàu bị bứt neo đang ùn lại. Hình như vợ tôi – tên cô ấy được tôi dùng để đặt cho con tàu – đang đuổi theo tôi, hét lên ngăn tôi lại. Ván cầu ngập dưới nước một mét hai, nhưng những cây cọc nhú lên vẫn cho tôi chỗ bám tay. Tôi lần từng bước, từng bước, nước lên ngang túi ngực. Gió thổi vào bờ tạt nước vào miệng tôi. Con thuyền của tôi đang khóc lóc, rên rỉ do bị ép vào các cây cọc, và chúi đầu như một con bê khi hoảng sợ. Thế là tôi nhảy và lần mò sao đó leo được lên tàu. Lần đầu tiên trong đời tôi có được con dao đúng vào lúc cần thiết. Hai con tàu ương ngạnh ràng vào nhau đang ép Eleyne vào cầu tàu. Tôi cắt dây neo, dây chằng rồi đạp cho chúng tách ra, và chúng dạt về phía bờ sình lầy. Nhưng sợi xích neo của Eleyne không hề suy suyển, và cái vật bấu bùn cũ kỹ và to lớn kia vẫn nằm ở dưới đó, hơn bốn mươi lăm ký thép với những càng hình mũi giáo rộng như những chiếc xẻng.
Máy tàu của Eleyne không phải lúc nào cũng ngoan ngoãn, nhưng ngày hôm đó chỉ mới vừa chạm vào là nó đã chạy. Tôi giữ máy, đứng trên boong, tay trái với vào trong để cầm lái và điều khiển ga và ly hợp. Và con thuyền này như cũng cố gắng giúp tôi – tôi nghĩ nó cũng hoảng như tôi vậy. Tôi ép được nó đi ra và lôi sợi xích neo lên bằng tay phải. Bình thường tôi khó lòng mà kéo được chiếc neo đó cho dù có dùng cả hai tay. Nhưng lần này thì mọi thứ rất ổn. Tôi khiển được chiếc neo, khiến cho nó lật lên và các ngạnh của nó thoát ra khỏi bùn. Rồi tôi nhấc bổng nó lên khỏi đáy, từ từ xoay mũi về hướng gió và tăng ga. Chúng tôi xoay xở với cơn gió chết tiệt ấy và nhích dần lên. Thật chẳng khác gì lội bì bõm trong món cháo đặc quánh. Ra cách bờ chín mươi mét, tôi thả cho neo chìm xuống, bấu lấy đáy. Fayre Eleyne đã đứng ngay ngắn, mũi nghếch lên. Có vẻ như nó vừa thở phào nhẹ nhõm.
Và thế đấy, tôi đang ở cách bờ chín mươi mét với Donna gào thét ở bên trên như một bầy chó săn ria trắng. Không một chiếc xuồng nào có thể chống chọi lại nó dẫu chỉ trong một phút. Tôi thấy một cành cây trôi ngang qua và đơn giản là nhảy ùm xuống tóm lấy nó. Không có gì nguy hiểm cả. Chỉ cần ngóc đầu lên được là gió sẽ thổi tôi tấp vào bờ, nhưng tôi phải thừa nhận là chiếc ủng cao su kiểu Half-Wellington[5] tôi đang mang sao mà nặng quá chừng. Có lẽ chưa đến ba phút tôi đã đến bờ, nơi nàng Fayre Eleyne kia cùng một người hàng xóm đã chờ sẵn để kéo tôi lên. Chỉ đến khi đó tôi mới bắt đầu run bần bật, nhưng nhìn ra ngoài thấy con thuyền bé bỏng của chúng tôi đang cưỡi sóng tốt và an toàn thì thật là dễ chịu. Hẳn là tôi đã bị bong trật đâu đó khi kéo chiếc mỏ neo bằng một tay, cho nên tôi cần giúp đỡ chút đỉnh khi về nhà. Một ly whisky trên bàn bếp cũng là sự giúp đỡ. Sau này tôi đã thử kéo chiếc neo đó lên bằng một tay nhưng không sao làm được.
Gió lặng đi nhanh chóng, để lại cho chúng tôi một đống hư hao và đổ nát: đường dây điện bị đứt, không có điện thoại trong suốt một tuần. Nhưng Rocinante thì không hề suy suyển.