Mùa xuân năm 1952, trong tác phẩm “Trên Con Đường Lớn”, nhà văn Bô-rít Pô-lê-vôi đã tạo ra những câu chuyện phản ánh đời sống và ca ngợi lòng kiên trì của các công nhân Xô-viết, đặc biệt là thanh niên nước Nga đang làm việc không ngừng để thực hiện những kế hoạch đầy ấn tượng. Tác phẩm này không thuộc vào một thể loại văn học cụ thể nào, không phải là phóng sự mà cũng không đơn giản là truyện ngắn. Điều đặc biệt của nó là sự chân thực, đầy sức sống. Trước khi được biên tập thành sách dưới tiêu đề “Trên Con Đường Lớn”, những tác phẩm này đã khiến độc giả trong và ngoài nước say mê…
LỜI TỰ THUẬT CỦA TÁC GIẢ
Tôi sinh ngày 17 tháng 3 năm 1908 tại Mátxcơva, nhưng lớn lên tại Tưve (gọi là Calinin ngày nay); do đó có lý do để coi mình là người dân của Calinin. Cha tôi là luật sư và mất vì bệnh lao vào năm 1916. Tôi hầu như không nhớ gì về ông, nhưng theo sách vở ông để lại, ông đã để lại một tủ sách rất tốt với tác phẩm của các tác giả cổ điển Nga và nước ngoài. Sau khi cha tôi mất, mẹ tôi làm việc ở một nhà máy, làm thầy thuốc, và chúng tôi chuyển đến sống trong một xưởng dệt lớn của Marôdốp. Tôi đã trải qua tuổi thơ và tuổi trẻ tại đó.
Chúng tôi sống ở khu khang trang dành cho nhân viên, nhưng bạn bè của tôi là con của thợ thuyền. Vì mẹ tôi bận rộn với công việc của mình, nên tôi thường phải tự lẻn vào ngày cả, chơi ở nhà máy hoặc ngoài trời xung quanh. Tôi học không quá tệ ở trường, nhưng cũng không hăng hái lắm. Những lúc rảnh rỗi, tôi thường ngồi đọc sách trong thư viện của cha. Mẹ tôi luôn khuyến khích tôi đọc các tác phẩm mà bà yêu thích.
Những cuốn sách đầu tiên tôi đọc là Gôgôn, Sêkhốp, Nêcưraxốp, và Pimialốpski. Trong số các nhà văn, tôi yêu thích nhất là Goócki. Khi còn học sinh, cha mẹ tôi đều rất kính trọng ông và tủ sách gia đình có hầu hết các tác phẩm của ông trước cách mạng. Ngoài việc yêu thích đọc sách, tôi cũng đam mê thiên nhiên. Khi lên lớp sáu, tôi đã trở thành “lãnh đạo” của nhóm sinh vật học trẻ và tham gia các cuộc họp của thanh thiếu niên.
Tại thị trấn, có một tờ báo mang tên “Sự Thật Tưve”. Trong những năm 1920, đã tạo ra một mạng lưới thông tin quan trọng bởi các thông tín viên công nhân trong xưởng. Toà báo đặt ở một căn nhà giữ dụng cụ cứu hỏa. Những người làm báo được khâm phục tại xưởng. Đó có thể là khiến tôi phát triển sở thích viết báo, một nghề tôi coi quan trọng và mà lúc đó còn huyền bí. Khi tôi học lớp sáu, báo “Sự Thật Tưve” đã đăng bài viết đầu tiên của tôi. Bài báo kể về một nhà thơ nông dân tên Đưrốtgin đến thăm trường.Bài viết ấy xuất hiện ở cuối trang tư và thiếu ký tên. Nhưng dù vậy, tôi biết người đã viết bài, nên tôi đã không bao giờ bỏ qua số báo chứa bài đó cho đến khi nó rách từng mảnh trong túi của tôi. Đó là lý do tại sao tôi đã thường xuyên viết cho báo Sự thật Tưve: bắt đầu từ các vấn đề xã hội ồn ào trong thành phố, rồi chuyển sang những vấn đề nghiêm túc hơn; cuối cùng, khi báo chú ý đến tôi, tôi đã được giao nhiệm vụ viết về tin tức đời sống trong các nhà máy, xưởng của thành phố. Sau đó, tôi tiếp tục học cấp 3, sau đó vào trường kỹ thuật công nghiệp; chuyển sang ngành hóa học và dồn hết tâm trí vào phân tích chất lượng và lượng sản phẩm. Tuy nhiên, tôi không ngừng mơ ước về các bản tin đặc biệt trong những tòa soạn phảng phất mùi mực in; trong những giờ học, tôi viết lén những bài báo hay những bản tin về những chủ đề xa lạ so với những gì giáo sư đang truyền đạt. Dần dần, tôi bắt đầu làm báo viên tại báo Xô Viết, nơi mà tôi luôn coi đó là nghề văn chương đầy sáng tạo và hấp dẫn hơn hết.Báo Sự thật Tưve thời đó thực sự sôi động: bằng cách biết bắt kịp thời điểm và đưa ra thông tin mới, hấp dẫn và có giá trị trong công việc xã hội chủ nghĩa tại các nhà máy và thôn xóm. Khi làm việc báo chí, tôi đã quen thuộc với việc quan sát kỹ lưỡng, suy ngẫm về các vấn đề, và chỉ viết về những điều mà tôi hiểu rõ. Tôi dành các tháng nghỉ của mình để làm việc cho các tòa báo, cố gắng tận dụng thời gian đó để quan sát sự kiện.Ở tuổi trẻ, tác phẩm vĩ đại của Goócki, mà tôi đã đọc từ khi còn nhỏ, đã soi sáng cho tôi con đường như một ngọn hải đăng. Tôi đã học được tinh thần quan sát từ ông. Một mùa hè nọ, tôi quyết định dành một loạt bản tin về các nhà máy chế biến gỗ và các xưởng sản xuất trên dòng sông trong vùng Tưve. Tôi đi xuyên suốt quận Xêligiarốpski. Tại đó, tôi thăm các nhà máy chế biến gỗ, lên các con thuyền trôi trên sông và làm việc trong đó, giữ cánh lái thuyền, và chèo từ phía sau. Từ nguồn sông Vonga, tôi đã đi xuống tới Calinin, rồi tiếp tục xuống đến Rưbinscơ, nơi là điểm kết thúc hoàn hảo với những chiếc thuyền đậu đúng bến. Trong quá trình thám hiểm như vậy, báo đã đăng loạt bản tin của tôi mang tựa “Trên những con thuyền trôi sông”. Tôi đã viết những bài đó vào ban đêm, gần ngọn lửa nhỏ đốt giữa lều trên thuyền.Ở mùa hè khác, tòa soạn báo Thôn xóm Tưve đã giao cho tôi công việc viết bài về tình hình xã hội chủ nghĩa trong cuộc sống của các thôn xóm chưa tổ chức thành nông trang. Tôi đã đến làng Míchsina, một nơi tận cùng của tỉnh Tưve, sắp xếp sách trong thư viện và viết hàng loạt bài báo về cuộc sống trong làng và những bước khởi đầu của lao động tập thể.Năm 1927, bộ bài viết đầu tiên của tôi đã ra đời. Đồng nghiệp của tôi tại báo thanh niên cộng sản Thế hệ trẻ đã không nhận xét gì mà gửi nó cho Mácxim Goócki tại Xorente. Khi tôi biết được điều này, tôi vô cùng hồi hộp. Buổi trình diễn của người văn hào lừng lẫy phải dành thời gian để đọc những tác phẩm không đáng chú ý gì của tôi thì thật là một điều khiến tôi cảm thấy bị xúc phạm. Do đó, tôi đã ngạc nhiên khi nhận được một gói lớn có tên tôi, có tem từ nước ngoài, chữ viết lớn và kiên cố.Tài thư viết đến 6 trang giấy, Goócki đã nghiên cứu kỹ lưỡng và rất khoan dung với tác phẩm trẻ thơ của tôi. Ông khuyên tôi nên không ngừng học hỏi, tìm hiểu văn học cổ điển như “một thợ mài mò kim loại”. Bức thư của văn hào đối với tôi thực sự quý báu, giúp tôi học hỏi suốt bao nhiêu năm qua. Tôi đã suy nghĩ về từng câu ông viết, cố gắng rút ra những kết luận chính xác và hữu ích.Goócki đã giúp tôi nhận ra rằng công việc viết báo và viết văn là những nghề khó khăn, đòi hỏi phải học tập và lao động nhiều hơn bất kỳ nghề nào khác. Tôi hiểu rằng không thể làm được những công việc đó nếu không đầu tư toàn bộ tâm trí và cố gắng hết mình, chỉ có vậy mới có cơ hội trở thành một người lao động thực sự trong ngành báo chí chủ nghĩa xã hội. Lúc đó, tôi mới tốt nghiệp trường kỹ thuật, bắt đầu làm việc ở nhà máy nhuộm, nơi in những loại vải.Xưởng sách ở Ấn Độ thực sự là một tác phẩm tuyệt vời. Tôi đã có cơ hội trở thành một phần của nhóm thông tín viên công nhân ở đó và thực sự là một trải nghiệm thú vị. Dù tôi rất đam mê việc viết báo, nhưng công việc của tôi tại xưởng và nhà máy vô số không ngừng, cuộc sống thật bận rộn. Cuối cùng, tôi đã đưa ra quyết định chín chắn rời bỏ công việc trước đó để trở thành biên tập viên của tờ báo Thế hệ Trẻ của tỉnh. Tôi đã được hoan nghênh và cống hiến cho báo bằng tất cả tâm huyết của mình.
Công việc tại tờ báo này thực sự sôi nổi và giúp tôi phát triển kỹ năng viết của mình. Dù báo chỉ có nguồn lực hạn chế, nhưng chúng tôi vẫn ra mỗi tuần hai kỳ báo với sự nỗ lực của những thông tín viên trẻ. Tinh thần sáng tạo của chúng tôi đã được công nhận và tờ báo đã nhận được nhiều phản hồi tích cực từ độc giả. Việc làm việc trong ngành báo chí đã mở ra cơ hội cho tôi thể hiện bản thân và phát triển khả năng viết văn của mình.
Sau này, khi tôi tham gia vào Đảng Cộng sản và làm thông tín viên chiến tranh cho tờ báo Sự thật ở Calinin, đó thực sự là thời điểm mà sự nghiệp văn chương của tôi thăng hoa. Việc làm báo giúp tôi hiểu rõ hơn về cộng đồng và những sự kiện xã hội, từ đó tôi có thêm nguồn cảm hứng để viết những cuốn tiểu thuyết đầu tiên của mình.
Từng trải qua nhiều bước thăng trầm và trải nghiệm đầy màu sắc trong nghề viết, tôi đến với những câu hỏi về việc làm báo có ảnh hưởng đến công việc viết văn của tôi. Tuy nhiên, chính công việc trong báo chí đã giúp tôi hiểu rõ và thấu hiểu tâm trạng của xã hội, từ đó tạo nên những tác phẩm văn học sâu sắc và đầy ý nghĩa.Trong cuốn sách này, tôi đã ghi chép được sự việc về sáu mươi nhăm câu chuyện thuộc loại ấy. Một trong những câu chuyện ấy kể lại buổi gặp gỡ kỳ lạ với trung úy Vệ quốc Marétxép, phi công ở một phi trường lâm chiến, gần Oren, thời tấn công đánh lấy thành phố ấy. Đó là đề tài cuốn Một Người chân chính. Tôi đã rút ra từ những điều tôi đã ghi chép được hai mươi bốn câu chuyện tôi cho là quan trọng hơn cả, điển hình hơn cả, bộc lộ rõ hơn cả tinh thần của con người Xô viết. Và tôi đã viết thành những bài truyện ngắn, tập hợp lại trong một cuốn sách lấy tựa là Người Xô viết chúng ta.Việc làm báo là cơ hội đưa chúng ta gần gũi với những cá nhân nổi bật nhất hiện nay và cho phép chúng ta chiêm ngưỡng họ trong cuộc sống và những cuộc đấu tranh của họ. Việc làm báo giúp tôi có cái nhìn sắc sảo hơn, tai thông dụng hơn. Đối với tôi, những tình tiết mà cuộc sống mang lại thường thay thế cho khoảnh khắc sáng tạo trong văn chương của tôi. Những nhân vật mà tôi tạo ra, mà cuộc sống thổn thức ngoài trên trang giấy, hoàn thiện những điều chưa hoàn thiện trong tác phẩm của tôi: chúng ta đã có cơ hội gặp lại anh Marétxép tại Vácxava, không chỉ là nhân vật trong tiểu thuyết của tôi mà lần này với vai trò đại biểu từ Liên Xô tại Đại hội thế giới thứ hai của các Chiến sĩ Hòa bình. Malích Gápđulin, nhân vật trong truyện “Một anh hùng ca”, hiện đang là lãnh đạo Viện Văn học trong Viện Hàn lâm Khoa học của Cadắc và một phụ nữ nông dân ở Pôntava, chị Uliana Bialôgơrút, người đã giữ lá cờ của một trung đoàn chiến xa lạ, trong truyện “Lá cờ của trung đoàn của tôi”, sau chiến tranh đã được tặng huân chương vì thành công trong vụ mùa củ cải. Việc chứng kiến niềm vui của những con người đó, sự sáng tạo của họ, và lòng nhiệt huyết của họ khiến tâm hồn tôi tràn đầy hạnh phúc và biết ơn. Làm nhà văn ở xứ sở chủ nghĩa xã hội, đó là một hạnh phúc vô tận không ngừng. – Boris Polevoi, Moskva, tháng 11 năm 1950. Hãy đọc cuốn sách “Trên Con Đường Lớn” của tác giả Boris Polevoi.