Cuốn sách “Trường An Ly Ca Tập 3: Cao Sơn Lưu Thủy” tiếp tục đưa độc giả vào một cuộc phiêu lưu đầy mạo hiểm và kịch tính trong thế giới cổ trang của nhà Đường. Tác phẩm này không chỉ là một câu chuyện trinh thám đẳng cấp mà còn là một hành trình khám phá về con người và văn hóa thời kỳ đại đế.
Nhân vật chính, Lý Khác, tiếp tục đối mặt với những thách thức mới và những âm mưu nguy hiểm hơn bao giờ hết. Với sự mẫn tuệ và sắc sảo của mình, cùng với sự ủng hộ từ những người bạn đồng hành, Lý Khác đã phải đối mặt với những mối đe dọa đến từ bên trong và bên ngoài cung điện. Những bí ẩn cổ xưa và những âm mưu đen tối dần dần được hé lộ, tạo nên một mạng lưới phức tạp của những sự kiện đầy bất ngờ và gây cấn.
Thông qua ngòi bút tài tình của tác giả, các nhân vật lịch sử nổi tiếng được tái hiện một cách sống động và đa chiều. Mỗi nhân vật đều có đặc điểm riêng biệt, với những tính cách phức tạp và đa chiều, từ những vị vua và hoàng đế đầy quyền lực đến những người tầm thường mang trong mình những ước mơ và khát vọng riêng.
Cuốn sách không chỉ là một câu chuyện hấp dẫn mà còn là một bức tranh sống động về thời kỳ hoàng kim của nhà Đường. Từ những diễn biến của câu chuyện, độc giả sẽ được đắm chìm trong không khí của một thời đại huy hoàng và rực rỡ.
Đọc cuốn sách các bạn tiếp tục khám phá các chương:
Chương 25 Chuyện ma Dương Châu
Chương 26 Hạng Trang múa kiếm
Chương 27 Rồng cuộn hổ ngồi
Chương 28 Nỗi đau côi cút
Chương 29 Gom sức chờ thời
Chương 30 Sấm động kinh hồn
Chương 31 Hiềm khích không ngờ
Chương 32 Họa từ trong nhà
Chương 33 Cao sơn lưu thủy
Chương 34 Luyến tiếc ngày xưa
Chương 35 Canh bạc tất tay
Chương 36 Thiên hạ Trường An
Ngoại truyện
Tóm lại, “Trường An Ly Ca Tập 3: Cao Sơn Lưu Thủy” không chỉ là một cuốn sách trinh thám xuất sắc mà còn là một tác phẩm nghệ thuật với những tình tiết phong phú và sâu sắc, khiến độc giả không thể rời mắt khỏi trang sách. Mời các bạn đón đọc cuốn sách Trường An Ly Ca Tập 3: Cao Sơn Lưu Thủy của tác giả Úc Phức
—
Chương 25 Chuyện ma Dương Châu
Tháng Ba ở Dương Châu đúng vào mùa mưa, sương mù giăng khắp mặt sông. Nước mưa chốc chốc lại gõ lên lan can thuyền, phát ra tiếng “lộp bộp”. lái thuyền khoác áo tơi đội nón lá đứng ở mũi thuyền, vừa ra sức chèo vừa ngoảnh đầu nói: “Công tử ngồi dịch vào bên trong một chút, đừng để mưa hắt ướt người.”
Lý Khác hơi dịch vào, vừa cười vừa nói: “Giọng Dương Châu của ông thật là dễ nghe, còn hay hơn cả tiếng quan thoại Trường An của chúng tôi!”
Ông lái thuyền đưa tay lau mồ hôi trên trán, thẳng thắn nói: “Công tử cứ đùa. Phía trước là ngã ba, công tử muốn đi theo đường nào?”
Lý Khác nghịch chiếc quạt xếp trong tay, hững hờ nói: “Không quan trọng. Ông thích đi đâu thì đi!”
Ông lái thuyền lắc đầu chẳng biết làm sao. Ông chèo thuyền ở vùng Dương Châu này đã mấy chục năm, chưa bao giờ gặp người khách nào tùy tiện như vậy. Thấy trời mưa ngày càng nặng hạt, bà vợ ở nhà chắc vẫn đang đợi ông về nấu bát canh gà mái già để bồi bổ cơ thể. Nghĩ đến đây, ông liền khua nhanh tay chèo, chèo về phía gần bờ nhất.
Hai bên bờ gió mát lướt qua, tạt nước mưa vốn hắt vào mặt rơi cả vào cổ. Lý Khác đứng dậy, mở chiếc ô vải dầu lớn mang theo bên mình, lấy một xâu tiền trong tay áo ra, đặt vào tay ông lái thuyền, nói lời tạm biệt rồi lên bờ.
Tang sự của Tiêu hoàng hậu đã xong xuôi từ hơn nửa tháng trước, nhưng thứ sử Dương Châu Trịnh Đạc ngày nào cũng dẫn mấy người bản xứ có tiếng đến bái kiến, nên nhất thời họ vẫn chưa đi được. Lý Khác thật sự không thích ứng phó với những tình huống kiểu này, nên luôn mượn cớ để ra ngoài dạo chơi một mình. Có điều, trước khi lên đường Lý Thế Dân đã trao cho y chức truất trắc sứ đạo Hoài Nam, cũng là có ý muốn y thay thiên tử tuần du, tra xét dân tình, khảo sát chính tích của quan viên. Cho nên y làm vậy cũng không thể coi là bỏ bê việc chính.
Nơi xuống thuyền đã là vùng ngoại ô Dương Châu, chỉ có lác đác mấy nóc nhà. Lý Khác đi loanh quanh một lúc, thấy phía trước có một ngôi miếu tuy hơi cũ kỹ, nhưng được xây dựng rất gọn gàng tinh xảo. Trên tấm biển là ba chữ dùng đá xếp thành: miếu Đồng Tử.
Y còn chưa gõ cửa đã thấy có một con mèo đen từ bên trong nhảy ra, nhắm về phía y kêu ré lên. Lý Khác giật nẩy mình vì bất ngờ, vội vịn vào khung cửa bên cạnh.
“Tiểu súc sinh! Ba ngày không động gì đến mày, lại định thò mặt ra chọc phá quý nhân đấy phỏng?” Người đàn ông mặt đầy râu tua tủa cầm một cây chổi lớn lao vọt ra, vừa đuổi vừa lớn tiếng chửi mắng.
Con mèo thấy ông ta, lập tức lủi vào trong bụi cỏ bên cạnh. Người đàn ông đành hậm hực vứt cây chổi sang một bên, đoạn cười xòa, cúi người vái chào: “Tại hạ Tưởng Thổ Căn, là thủ từ của ngôi miếu này. Khiến công tử giật mình rồi, mau vào trong ngồi một lát đi”
Lý Khác phủi bụi trên tay áo, gật đầu nói: “Cũng được.”
Hai bên chính điện là hai hàng giá đặt hai mươi bốn ngọn nến ngay ngắn chỉnh tề, bên trên bàn thờ phía trước có thắp mười hai nén đàn hương, ba chiếc đĩa bạc bên dưới thì đựng hoa quả tươi, còn chính giữa phía trên bàn thờ là một bức tượng thiếu niên trong bộ đồ hoa lệ màu đỏ. Lý Khác thấy cậu thiếu niên mặt mày như tranh vẽ, phong thái trác việt, còn đẹp hơn tượng Thiện Tài đồng tử mà trước đây y từng thấy, liền tò mò hỏi: “Nơi đây thờ phụng ai vậy?”
Tưởng Thổ Căn lấy bàn chải quét tàn hương rơi trên bàn thờ, nói với vẻ mặt trang nghiêm: “Triệu vương”
Đôi mày Lý Khác khẽ giật: “Triệu vương là ai?”
Tưởng Thổ Căn “ài” một tiếng, quan sát Lý Khác mấy lượt: “Chính là Triệu vương Dương Cảo hơn ba mươi năm trước bị phản quân giết ở Dương Châu. Chắc công tử biết chứ?”
Lý Khác nhận ba nén hương từ tay Tưởng Thổ Căn, cúi người vái ba vái rồi cắm vào trong lư hương. Sau đó y lại lấy hai lạng bạc trong tay áo ra đặt lên trên bàn, coi như là tiền nhang khói: “Chuyện của Triệu vương, đúng là tôi có nghe sơ qua. Chỉ không ngờ, ở đây lại có người lập miếu cho ông ta.”
Tưởng Thổ Căn bỏ bạc vào trong chiếc hòm sắt cạnh tay, vuốt bộ râu cá trê nói: “Công tử nhìn xem, bức tượng này đã tuấn tú lắm rồi! Nhưng nghe các cụ từng trông thấy Triệu vương trong làng chúng tôi nói, nó vẫn chưa thể hiện được một phần mười thần vận của ngài ấy! Lúc đó, mấy đại hoạn quan bên cạnh Tùy Dạng Đế cưỡng ép các cụ nhập ngũ, chính Triệu vương đã quỳ xuống cầu xin Dạng Đế, nên bọn họ mới được miễn phu phen. Mấy hôm sau, Triệu vương lại sai tiểu thái giám dưới quyền mình đem chút vàng bạc của cải tặng cho các cụ. Năm Vũ Đức thứ nhất, Dương Châu mưa dầm dề không ngớt, ruộng đồng không thu hoạch nổi một hạt thóc. Đạo sĩ giang hồ nói rằng, Triệu vương chết oan, ông trời đang buồn bã đau lòng. Chỉ có lập miếu cho Triệu vương, truyền đời hương khói, mới có thể giữ được một phương thái bình..”
Lý Khác nghe đến đây, trong lòng bất giác trào dâng mấy phần thê lương quạnh quẽ. Dương Cảo là em trai duy nhất của mẹ y, lúc chết mới chỉ mười hai tuổi. Một cậu thiếu niên mười hai tuổi có dung mạo siêu phàm thoát tục, tâm hồn trong sáng đơn thuần, lại bị một lũ bẩn thỉu vô liêm sỉ nhất thế gian đoạt mạng. Lý Khác đột nhiên nhớ đến ba chữ mình nhìn thấy lúc mới bước vào: miếu Đồng Tử. Một thiếu niên như vậy, có lẽ đúng là mang mệnh đồng tử![*]
“Công tử?” Tưởng Thổ Căn thấy Lý Khác có vẻ trầm tư, liền khựng lại, suy nghĩ một lát rồi mới nói tiếp, “Thế là các cụ liền mời người xây ngôi miếu Đồng Tử này, còn đem vàng bạc của cải năm xưa Triệu vương tặng đặt vào trong hộp gấm rồi chôn xuống đất. Nói ra cũng thật kỳ lạ, kể từ đó nơi đây gần như không xảy ra tai họa. Các cụ đều bảo, Triệu vương nhân hậu, ở trên trời vẫn tiếp tục bảo vệ trăm họ dưới trần gian!”
Lý Khác nghe tiếng mưa bên ngoài dần ngưng, liền đứng dậy, lại vái bức tượng đó một lần nữa, rồi quay sang nói với Tưởng Thổ Căn: “Các ông có lòng thành kính nể sợ thần linh như vậy, thần linh cũng sẽ phù hộ các ông”
Tưởng Thổ Căn hơi ngạc nhiên: “Trông công tử có dáng vẻ nhà quan, không ngờ cũng tin chuyện quỷ thần”
“Thủ từ kể chuyện sinh động như vậy, hóa ra không phải là mong tôi tin à!” Lý Khác cầm chiếc ô vải dầu dựng ở một bên lên, mỉm cười: “Cảm ơn ông”
“Công tử cảm ơn vì điều gì?” Lúc bước qua bậc cửa, Lý Khác nghe thấy Tưởng Thổ Căn ở đằng sau cao giọng hỏi. Y cũng mặc kệ, vẫn cứ đi tiếp.
Không khí sau mưa là tươi mát nhất, hít nhẹ một hơi, liền cảm thấy trong bụng vô cùng dễ chịu. Lý Khác đi trên con đường quanh co bên ngoài miếu Đồng Tử, tâm trạng nặng trĩu suốt mấy ngày dường như đã vơi đi không ít theo chuyến đi hôm nay. Dương Châu đúng là rất tốt, chẳng trách năm xưa Tùy Dạng Đế lại thích Dương Châu như vậy, thậm chí trong lần cuối cùng xuống Giang Nam, ông ta còn coi Dương Châu là chốn an thân cho nửa đời còn lại. Nhưng về sau, nơi đây lại trở thành mồ chôn của ông ta, thật không biết nên thương xót hay nên than thở.
Lý Khác muốn đưa Kỳ Úc tới Dương Châu chơi từ mấy năm trước, chỉ là lúc đó trên dưới triều đình đều đang chuẩn bị cho trận chinh phạt Cao Câu Ly, nhất thời y cũng không thoát ra được. Những ngày sau đó, y luôn cảm thấy bất an, lại thêm việc Lý Thế Dân đau ốm, nên y cũng chẳng còn lòng dạ đi du sơn ngoạn thủy nữa. Còn lần này thì đến để lo tang, tâm trạng nói chung là chán chường nhiều hơn vui vẻ.
Lúc về đến dịch quán Dương Châu, trời đã sẩm tối. Vân Lĩnh bỏ lại hai thị vệ đang trò chuyện vui vẻ với mình, vội vàng bước tới đón: “Điện hạ đã về. Trịnh thứ sử và Hồ huyện lệnh huyện An Nghi, còn cả mấy vị quan viên trí sĩ cũng vừa mới ra về ạ?”
“May mà có huynh ấy.” Lý Khác lau nước mưa vô tình dính trên tóc, vừa đi vừa nói, “Ngươi đi bảo đám người dưới một tiếng, trưa mai chúng ta sẽ lên đường về Trường An.”
Vân Lĩnh dạ một tiếng, quay người chạy ra ngoài cửa.
Lúc này Đỗ Húc đang bưng một cái khay, bước chậm rãi từ cuối hành lang tới, cúi người nói: “Tham kiến điện hạ. Công tử bảo là, đợi ngài về sẽ qua tìm ngài. Công tử còn bảo sau này sẽ không bao giờ giúp ngài đối phó với mấy người đó nữa.”
Lý Khác lắc đầu bất lực, nghĩ bụng: Cũng được, may mà mai là đi rồi. Sau đó y mở nắp chén trà trên khay, bất giác nhíu mày: “Sao huynh ấy lại muốn uống trà đặc như thế này? Hại dạ dày quá. Bảo nhà bếp chuẩn bị nước mật ong ấm một chút.”
Đỗ Húc khó xử nhăn mày: “Nhưng công tử sẽ nổi giận đấy ạ. Ngài biết mà, gần đây công tử không được vui vẻ cho lắm.”
“Hình như trước đây ngươi đâu có sợ huynh ấy như vậy!” Lý Khác nhìn Đỗ Húc nói, “Cứ làm theo lời ta đi! Nếu huynh ấy trách ngươi thì hôm tới ngươi qua phủ Ngô vương làm việc”
Bên ngoài gian nhà Dương Chính Đạo ở có trồng một bãi ngô đồng. Tuy đông ấm hè mát, nhưng hay có côn trùng chui vào qua cửa sổ. Thế là gã đành phải đặt một lượng lớn hương huỳnh đàn trong bốn chiếc lư ở chính đường để xua đuổi. Lúc này gã đang nhắm hờ mắt, dùng tay day huyệt thái dương, nói với giọng đượm phần mệt mỏi: “Dạo này ta luôn cảm thấy đầu óc váng vất, đành phải uống chút trà đặc cho tỉnh táo. Thế mà đệ cũng muốn quản sao?”
“Huynh nói, làm sao ta biết được?” Lý Khác vén áo ngồi xuống cạnh gã, “Mà đâu chỉ có thế. Dọc đường từ Trường An đến Dương Châu, huynh đều không muốn nói chuyện với ta cho lắm. Vấn đề ở phía ta, hay là ở phía huynh?”
Dương Chính Đạo biết ắt hẳn y đã nhịn rất lâu rồi mới hỏi như thế này. Nhưng trong một chốc một lát gã cũng không giải thích được, đành nói với vẻ dửng dưng: “Đệ không nên đến Dương Châu. Trường An cần đệ hơn.
“Bất kể cần hay không, ta cũng đã đến rồi. Nếu huynh thật sự trách ta vì việc này, thì ta cũng chẳng có cách nào cả.
“Đệ giận dỗi ta làm gì? Nếu đến bây giờ mà đệ vẫn không hiểu ý ta, thì những năm qua chúng ta uổng công làm huynh đệ rồi!”
Lý Khác đang định mở miệng thì nghe thấy bên ngoài có tiếng gõ cửa vang lên. Y đứng dậy mở cửa, đón lấy chiếc cốc sứ trong tay Đỗ Húc, rồi xua tay bảo hắn đi.
“Lúc không vui phải nếm chút đồ ngọt. Miệng ngọt rồi thì lòng sẽ không đắng” Lý Khác bưng chén sứ đựng đầy nước mật ong đến trước mặt Dương Chính Đạo, “Huynh có giận ta thì cũng không thể không quý trọng thân thể mình. Ngày mai chúng ta sẽ lên đường, nếu mọi thứ suôn sẻ thì có thể về nhà trước tết Hàn thực”
Dương Chính Đạo uống một hơi hết nước mật ong trong chén, rồi lại lấy cốc sứ rót thêm chén nữa. Một lúc lâu sau gã mới nói: “Ngọt quá. Tên nhóc Đỗ Húc này thật là không biết chừng mực khi pha. Cơ mà mật ong này được đấy, dư vị dài lâu, còn thoang thoảng mùi thơm của hoa.
Lý Khác thấy cuối cùng giọng gã đã dịu đi, nghĩ bụng, biết thế cho uống sớm một chút thì có phải tốt rồi không, nhưng miệng chỉ nói: “Chỉ cần huynh thích là được. Nếu huynh thật sự không ngủ nổi thì ta sẽ đánh cờ với huynh. Lâu lắm rồi chúng ta cũng chưa rèn giũa ngón cờ một cách nghiêm túc.”
Một đêm chơi cờ say sưa thỏa thích đã kết thúc, rạng sáng, cả hai cuối cùng cũng buồn ngủ, gục luôn xuống bàn đánh một giấc. Đến khi ngoài cửa vẳng tới những tiếng bước chân nhộn nhạo, hai người mới không hẹn mà cùng tỉnh dậy. Quý Ân gõ cửa khe khẽ, dừng lại một chút, rồi gõ tiếp hai cái: “Điện hạ, ti chức có chuyện muốn bẩm báo.
Lý Khác dụi đôi mắt ngái ngủ, quân cờ đen y nắm suốt trong tay liền rơi xuống đất. Y nói nhỏ: “Biểu huynh, mau ra mở cửa”
Dương Chính Đạo đứng dậy, hai chân bỗng nhũn ra, vội vịn vào giá sách trước mặt, một bình hoa phỉ thúy bên trên lắc lư mấy cái, lúc sắp rơi xuống đất thì Lý Khác nhanh tay lẹ mắt đón được. Dương Chính Đạo giật mình, bước qua hai tấm đệm trúc, đi đến trước cửa, kéo then ra: “Sáng sớm ngày ra, có việc gì mà gấp thế?”
Quý Ân đưa tay lau mồ hôi trên trán, lo lắng ra mặt: “Quấy rầy quân hầu nghỉ ngơi rồi. Vừa nãy Trịnh thứ sử đến báo tin, miếu Đồng Tử ở ngoại ô phía Tây đêm qua bị cháy, chính điện đã thành một đống hoang tàn. Thủ từ không chạy kịp, bị chết ngạt ở bên trong.”
“Thời tiết Dương Châu khá là ẩm ướt, sao có thể xảy ra hỏa hoạn vào mùa này?” Dương Chính Đạo hết sức kinh ngạc hỏi, “Hơn nữa những việc kiểu này đúng ra phải do thứ sử xử lý, tại sao lại vội vã đến báo với chúng ta như thế?”
“Chắc ông ta có lý do.” Lý Khác từ bên trong bước ra, tiện tay ném chiếc đệm trúc dưới đất lên giường, nói với Quý Ân, “Bảo Trịnh thứ sử chuẩn bị, ta muốn đến đó xem xem. Nói đoạn, y lại quay sang Dương Chính Đạo, “Xem ra, hôm nay chúng ta chưa lên đường được rồi.”
Ngoại ô Dương Châu, gió xuân phớt qua mặt, ánh nắng rực rỡ từ trên cao chiếu xuống, nước đọng trên con đường lát đá lấp lánh sáng ngời. Một mùi khét nồng nặc bốc lên trong không khí, làm người ta ho sặc sụa không thôi. Trịnh Đạc nói với vẻ mặt bứt rứt: “Quấy rầy điện hạ đích thân đến kiểm tra, hạ quan thực sự thấy thẹn trong lòng”
Dương Chính Đạo khẽ nhếch môi phản bác: “Chẳng phải chính Trịnh thứ sử tới quấy rầy sao? Giờ còn nói như vậy, không cảm thấy rất nực cười à?”
Trịnh Đạc nắm chặt hai tay vào nhau, không khỏi lúng túng ra mặt. Lý Khác nghiêng đầu nhìn Dương Chính Đạo, ý nói: Biết thừa nhưng đừng nói toạc, không thể chẳng giữ lại chút thể diện nào cho người ta như vậy. Lúc ở Trường An, y có tìm hiểu về tác phong hành sự của vị Trịnh thứ sử này, tuy năng lực làm việc hơi yếu, nhưng ông ta là người trung hậu khiêm tốn, lại rất quan tâm đến nỗi khổ của người dân, có thể coi là một vị quan tốt.
Y đang suy nghĩ thì thấy Trịnh Đạc dẫn một người đàn ông trung tuổi mặc áo bào xanh đi tới: “Điện hạ, người này tên là Kim Hồng. Chính ông ta đã đến phủ thứ sử báo án”
Ánh mắt của Lý Khác vượt qua hai người họ, hướng đến một bãi ngổn ngang cách đó không xa. Còn chưa đầy một ngày, chính điện của ngôi miếu Đồng Tử vốn được xây dựng khá là tinh xảo đã thành ra thế này, quả thực y cũng thấy hơi buồn. Y bèn tiến lên mấy bước, dừng lại một lúc rồi mới ngoảnh đầu hỏi: “Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?”
Kim Hồng cúi đầu, đưa tay trái xoa mấy vết thương trong lòng bàn tay phải: “Bẩm điện hạ, nơi này chỉ có mười mấy hộ dân, hơn nữa cách miếu Đồng Tử khá xa, vì vậy mọi người đều không biết ngọn lửa này bắt đầu từ đâu. Khi hay tin, tiểu nhân vội vàng chạy tới, thì đã cháy thành như thế này rồi. Thi thể nằm bên cạnh mảnh vỡ của tượng Triệu vương, tuy bị thiêu biến dạng, nhưng vẫn có thể lờ mờ nhận ra đó chính là thủ từ Tưởng Thổ Căn, người quanh năm sống một mình trong miếu Đồng Tử. Sau đó ngỗ tác xác nhận, trong miệng Tưởng Thổ Căn có một lượng lớn tro khói, có thể thấy đúng là đã bị chết cháy”
Lý Khác trầm ngâm hỏi: “Có người nhà đến nhận xác không?”
Kim Hồng lắc đầu: “Theo tiểu nhân được biết, Tưởng Thổ Căn góa vợ, cũng không có con cái.”
“Vậy thì coi như là xác vô chủ rồi.” Lý Khác ngồi xổm xuống, cầm một thanh đòn ngang lên, lấy tay lau vết bẩn bên trên, ngẩng đầu nhìn Dương Chính Đạo. Gã hiểu ý, cầm mảnh sứ ở bên cạnh đưa lên mũi ngửi thử, rồi gật đầu. Lý Khác đứng dậy, rút chiếc khăn trong tay áo ra lau hai tay, sau đó nói với Trịnh Đạc: “Thông thường thứ sử xử lý mấy xác chết kiểu này như thế nào?”
Trịnh Đạc kính cẩn nói: “Thông thường nha phủ đều bỏ tiền bạc ra chuẩn bị quan tài sơ sài, an táng những thi thể vô chủ ở hậu sơn của chùa Vạn Tượng cách phủ thứ sử Dương Châu năm dặm. Mùng một hằng tháng, thiền sư Minh Huệ trong chùa sẽ siêu độ cho họ.”
“Thứ sử nhân hậu, chẳng trách cuộc sống của trăm họ Dương Châu lại sung túc vui vẻ như vậy. Nhưng mà..” Lý Khác nói đến đây, đột nhiên đổi sang giọng nghiêm nghị, “Một vụ án cố ý phóng hỏa giết người thế này, thứ sử phải tập trung toàn bộ tinh thần cẩn thận điều tra cho rõ.”
Mây đen trên trời từ từ trôi tới, dần chặn lại ánh nắng vừa nãy còn chói chang. Trịnh Đạc thoáng ngây ra, rồi lập tức nói với vẻ mặt như bình thường: “Sao điện hạ lại nói như vậy?”
Ánh mắt Lý Khác hơi nhấp nháy: “Thứ sử hẳn đã sớm biết việc này có khá nhiều ẩn tình, sợ mình không đủ sức khám phá, nên mới cần ta ra mặt giải quyết. Có điều, ông lại sợ ta phủi tay mặc kệ, nên muốn ta tận mắt nhìn thấy những điểm khả nghi, để ta chủ động đề nghị giúp ông điều tra, đúng không?”
Những giọt nước trên trán Trịnh Đạc từ từ chảy xuống, vào tận trong vạt áo, lại không biết là nước mưa hay mồ hôi. Ông ta cuống cuồng quỳ xuống, giọng nói hơi run vì chột dạ: “Điện hạ, hạ quan… hạ quan biết sai rồi. Hạ quan không nên có ý nghĩ như vậy. Chỉ là… điện hạ biết đấy, Triệu vương trong miếu Đồng Tử từng phù hộ cho Dương Châu mưa thuận gió hòa, giờ lại bị thiêu cháy một cách khó hiểu như vậy, hạ quan thật sự… thật sự cảm thấy sợ hãi”
Mưa ngày càng nặng hạt, các hộ vệ tới tấp mở ô che mưa cho mấy người. Lý Khác nói với vẻ lạnh nhạt: “Bản vương thân là Đại Lý tự khanh, lại là truất trắc sứ đạo Hoài Nam do bệ hạ khâm định, việc này không nằm ngoài phận sự. Có điều, bản vương cũng cần phải biết, ông có tư cách để ta giúp đỡ hay không. Đứng dậy nói những gì ông đã điều tra được đi!”
Giờ Trịnh Đạc mới dám giơ tay lau những giọt nước trên mặt, nói nhỏ: “Tảng sáng hạ quan đã dẫn người đến đây một lần. Lúc đó hạ quan phát hiện ra trong đống đổ nát có rất nhiều dấu vết của rượu mạnh và dầu thông dẫn lửa, cho nên mọi thứ trong miếu mới bị đốt sạch như này. Nhưng trong một ngôi miếu bình thường còn không có dầu thông và rượu mạnh, huống hồ là miếu thờ Triệu vương? Hơn nữa, Tưởng Thổ Căn sống ở hậu viện, tại sao nửa đêm ông ta lại vào trong chính điện? Vả lại, Tưởng Thổ Căn đang độ tráng niên, chính điện có song có cửa, dù là lửa cháy bất ngờ, sao ông ta lại không chạy thoát nổi cơ chứ?”
“Chắc chỉ có một khả năng” Lý Khác chậm rãi nói, “Đêm khuya có kẻ tới tìm Tưởng Thổ Căn nói chuyện. Có lẽ, người thì ông ta quen mà chuyện ông ta cũng rành. Nhưng mà, trong quá trình trò chuyện, kẻ đó lại tính kế đánh thuốc mê ông ta, rồi phóng hỏa thiêu chết, đốt rụi chính điện. Trịnh thứ sử vừa nãy chỉ bảo trong miệng ông ta chứa tro khói, còn trong khoang bụng, không biết ngỗ tác có thể kiểm tra không?”
Trịnh Đạc hít sâu một hơi: “Hạ quan hiểu rồi. Nhưng mà, Tưởng Thổ Căn đã chẳng còn người thân trên đời, không biết hạ quan nên điều tra từ đâu đây?”
“Không có người thân thì vẫn còn bạn bè.” Lý Khác trừng mắt với ông ta, lại thấy trong ánh mắt có vẻ kính cẩn của ông ta dường như lóe lên tia sáng thâm sâu khó dò, không khỏi thầm ngạc nhiên. Con người này, khá là thú vị.
Dương Chính Đạo cũng quan sát Kim Hồng mấy lượt, hỏi: “Ai bảo mà ông biết nơi đây bị cháy vậy? Tại sao khi trời còn chưa sáng kẻ đó lại tới nơi hoang vu này?”
Kim Hồng hơi nhíu mày, khóe mắt hằn sâu mấy nếp nhăn: “Tiểu nhân nghe người cùng thôn tên là Triệu A Cửu nói. Hẳn là người làm ăn, quanh năm hành tẩu bốn phương, hôm nay vốn định lên đường đi U Châu bán hàng, ai ngờ gặp phải vụ việc này. Hắn hoảng trong lòng, chỉ sợ đây là ông trời cảnh báo, cho nên liền hớt hải chạy đến báo tin miếu Đồng Tử bị cháy cho tiểu nhân”
“Vậy thì đây đúng là một việc kỳ lạ.” Dương Chính Đạo hỏi vặn: “Kim Hồng, ta hỏi ông, nếu nửa đêm ông đi ngang qua ngôi miếu Đồng Tử đang cháy, ông sẽ làm gì?”
“Tiểu nhân sẽ chạy trốn thật xa. Kim Hồng nói không suy nghĩ, sau đó dường như thấy nói vậy rất không thỏa đáng, bèn vội vàng chữa lại: “Tiểu nhân sẽ đi cứu hỏa”
Mắt Dương Chính Đạo thoáng hiện vẻ trào phúng: “Chạy trốn là bản năng, cứu hỏa cũng là bản năng. Nhưng hắn đã không chạy trốn, cũng chẳng cứu hỏa, mà lại đi xa như vậy để nói với ông. Việc này chẳng phải khá kỳ lạ sao?”
Kim Hồng hơi bần thần, nhất thời không nói nên lời.
Trịnh Đạc thắc mắc: “Quân hầu nghi ngờ Triệu A Cửu phóng hỏa sao? Nhưng mà hắn có mưu đồ gì? Hay là giờ hạ quan đi xích hắn đem tới đây tra hỏi kỹ càng?”
Dương Chính Đạo nhướng mày, hững hờ nói: “Ta chưa hề hoài nghi gì cả. Thứ sử muốn làm gì thì cứ việc làm. Tưởng Thổ Căn bị hại như này, thực là oan uổng. Trịnh thứ sử là quan phụ mẫu Dương Châu, tự biết nặng nhẹ.”
Trịnh Đạc vâng vâng dạ dạ, sau khi cáo tội với Lý Khác và Dương Chính Đạo, liền dẫn các bổ khoái dưới quyền đi đến thôn Mi Vu nơi Triệu A Cửu sống.