Tuỳ Tưởng Lục – Ba Kim
Khi tôi nhận được một cuốn sách hay, thường chỉ muốn đọc suốt từ đầu đến cuối ngay lập tức. Nhưng với Tuỳ Tưởng Lục của Ba Kim này, tôi đã phải dừng lại nhiều lần để suy ngẫm về những nội dung sâu sắc mà tác giả đưa ra.
Đây không chỉ là một cuốn sách, mà còn là một tác phẩm tâm sự chân thành của một tri thức đang tìm kiếm câu trả lời cho những băn khoăn về xã hội mà chúng ta đang sống. Với những lời viết uyển chuyển, Ba Kim đã khéo léo chọn lọc những bài văn đặc sắc để dịch, giúp người đọc hiểu rõ hơn về cuộc sống và những bi kịch đã xảy ra trong xã hội.
Nhờ Tuỳ Tưởng Lục, người đọc có cơ hội nhìn nhận lại quá khứ đau thương một cách chân thực và khách quan hơn. Bản dịch tiếng Việt được thực hiện một cách tinh tế, giữ nguyên được sức mạnh và cảm xúc từ nguyên tác tiếng Hoa.
Cuốn sách này không chỉ là một tác phẩm văn học, mà còn là một cẩm nang giáo dục giúp chúng ta hiểu rõ hơn về những sai lầm của quá khứ để có thể xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn. Tuỳ Tưởng Lục không chỉ là một cuốn sách, mà còn là một bài học quý giá mà chúng ta nên đọc và suy ngẫm.Cuốn sách này tập trung vào vấn đề quan trọng về cuộc Đại cách mạng văn hoá vô sản tại Trung Quốc, và cách mà nó đã ảnh hưởng không chỉ đến đất nước này mà còn tới toàn bộ loài người. Tác giả đi sâu vào những hiệu ứng mà cuộc cách mạng này đã tạo ra, từ những bi kịch trong lịch sử cho đến những tác động tâm lý sâu xa đến người dân.
Ba Kim, một trong những văn hào nổi tiếng của Trung Quốc, đã viết nên những tác phẩm đầy tâm huyết và sắc bén. Từ những tác phẩm như “Diệt Vong” cho đến “Ái Tình Tam Bộ Khúc”, ông đã tạo ra những tác phẩm ấn tượng với người đọc. Dù sau này ông không còn sáng tác nhiều như trước, tuy nhiên, đó vẫn là một phần không thể phủ nhận trong hành trình văn học của ông.
Cuốn sách này không chỉ giúp bạn hiểu rõ hơn về cuộc cách mạng ở Trung Quốc mà còn mở ra cái nhìn sâu hơn về tác động của nó đến toàn cầu. Đọc và tìm hiểu, bạn sẽ thấy cuộc sống và văn hóa ở nhiều nơi khác nhau đều có những liên kết phức tạp với nhau, và Ba Kim đã làng nghe đưa ta đến nhìn nhận điều này một cách sâu sắc.Với sự hăng say của đảng cộng sản Trung Quốc, cuốn “Đại Cách Mạng Văn Hóa Vô sản” đưa chúng ta qua những câu chuyện tàn bạo mà trí thức đã phải chịu đựng. Như trường hợp của nhà văn Ba Kim, người vốn hòa bình và đoàn kết với chính phủ cộng sản, nhưng đột ngột trở thành “đối tượng chuyên chính vô sản” chỉ bởi một ngày xui xẻo.
Cuốn sách tiết lộ những cuộc trừng phạt khủng khiếp, từ cuộc “vận động” đến việc bị đưa đi “học tập” và đấu tranh khắp nơi. Tất cả chỉ vì một lời phán từ các quyền lực cực kỳ hà khắc, không cần tới bản án từ tòa án. Điều này cho thấy sự tàn nhẫn và vô-tư của cách mạng, đặc biệt trong việc trừng phạt trí thức.
Qua cuốn sách này, chúng ta được nhìn thấy rõ sự ác liệt của cách mạng này, đồng thời khám phá được những bi kịch ẩn sau những khẩu hiệu hoa mỹ.Là một tác phẩm nổi bật, được đánh dấu bằng những bài viết ấn tượng, có tiêu đề to với chữ đậm màu đỏ trên trang nhất của tờ báo Nhân Dân. Trong các cuộc trò chuyện nội bộ, các tổng thống lớn nhỏ đều tỏ ra hết lời ca ngợi Cuộc Cách mạng Văn hoá Vô sản do chính Chủ tịch Mao vĩ đại chỉ đạo. Trong thời điểm đó, vợ của Chủ tịch Mao, Đồng chí Jiang Qing, đã tới Hà Nội theo lời mời của Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư cách là khách riêng. Bà không chỉ đơn thuần là khách, mà còn yêu cầu đọc trước các bài viết trên báo Nhân Dân và tự sửa từng chữ từng câu. Đây không phải là chuyện trêu ghẹo – chính nhân viên của báo Nhân Dân đã kể cho tôi nghe. Khi cầm trong tay những bản báo đó, người đọc sẽ không khỏi ngạc nhiên, lo lắng: liệu ở đây có thể sẽ có một “cách mạng” tương tự không? Có thể lãnh đạo ở đây sẽ dám mạo hiểm thực hiện những hành động như các vị Thần linh kế bên. Xa xưa, nước Trung Quốc rất gần gũi, nhưng các lãnh đạo ở đây lại chuộng việc bắt chước. Nghe họ nói, cuộc Cách mạng Văn hoá Vô sản tại Trung Quốc rất thành công, và cuộc sống sẽ trở nên tốt đẹp hơn nhờ vào nó. Như thể nếu không có cách mạng, mọi người sẽ phải chịu khó hơn.
Ờ, mọi người thường nói, nếu có cuộc đấu tranh thì cuộc sống sẽ trở nên tốt hơn đấy… chỉ là điều tốt thôi. Đừng bao giờ có cuộc đấu tranh hoành hành như là cải cách ruộng đất. Kinh nghiệm sống trong các xã hội chủ nghĩa cho chúng ta biết rằng nếu có “đấu tranh”, xã hội sẽ trở nên hỗn loạn, đầy mâu thuẫn, không còn bình yên nữa, chất càng nhiều hơn lợi. Các lãnh đạo có quyền lực thì họ hưởng lợi, còn dân thường thì chỉ có đau khổ, chỉ biết chịu đựng đấu tranh mà không biết “thu xếp ở đâu”?
Nhưng những thông tin phong phú, hiện đại được dân gian gọi là Thông tấn xã nhân dân, cho biết rằng ở Trung Quốc không chỉ có cách mạng mà còn một cuộc “thảm họa đại loạn” với những tướng lĩnh tiểu xảo Hồng vệ binh hung hăng tấn công, bắt giữ, thậm chí giết chóc. Nếu Bắc Kinh đã báo trước mưa thì quan vua ở Hà Nội hãy cẩn thận!
Nhưng không kém phần đáng sợ, khi ở trong vòng kiểm soát của Đảng Cộng sản, dù cẩn thận đến đâu cũng không đủ.
Đó chính là sự thật, không lâu sau khi bắt đầu Cuộc Cách mạng Văn hoá Vô sản, Lê Duẩn – vị Hoàng đế mới của triều đình, vẫn quen tay ra lệnh phục tạp phiên xuất đánh bại những kẻ phản cách mạng, theo mô hình của Trung Quốc, gọi là “bọn thế chống Đảng”. Tay phải của Hoàng đế Lê là Tể tướng giấu mặt Lê Đức Thọ và đệ nhất tư lệnh Trần Quốc Hoàn cũng tham gia. Và rồi tôi đã bị bắt và phải vào tù, cùng với vô số người khác.
Trải qua hơn bốn năm trong cuộc sống như bị kín đáo trong tù, tôi không biết điều gì đang diễn ra bên ngoài bốn bức tường, chưa kể đến những gì xảy ra ở Trung Quốc. Cho đến khi được chuyển ra trại tập trung mới, tôi mới được nghe được một chút về cuộc cách mạng khủng khiếp ấy. Những người Trung Hoa chạy qua từ đại lục, sau khi bị miệt thị bởi chính quyền thuộc địa, một quá khứ hậ hực. Họ không sợ, vì họ đã ở trong nhà tù Việt Nam, nhưng họ không muốn nhớ lại những kỉ niệm đau lòng đó. Còn với tôi, nghe sơ sơ về chuyện đó đã làm da gà trở lên. Khủng bố đó còn kinh dị hơn cả những gì tôi đã đọc trong sách nhiều. Linh hồn con người như là chất dẹo. Dân thường còn vẹn nguyên, rất có thể các trí thức Trung Quốc phải rất đau lòng. Đến những năm 1979-1980, khi Tàu đột ngột đánh Nhà nước Việt Nam một cú đau nhức, giới cầm cân nảy mực Việt Nam xem Tàu là kẻ thù, tôi mới đọc một vài cuốn sách hé lộ những bí mật xấu xa về những lãnh đạo xưa của Thiên triều, như Hồng Đô Nữ Hoàng (Giang Thanh), cùng những câu chuyện tăm tối liên quan đến Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Bành Chân, Diệp Kiếm Anh, Hạ Long, Bành Đức Hoài, Chu Ân Lai…
Nhưng đến tận bây giờ, hơn ba chục năm sau đó, qua Tuyển Tưởng Lục, tôi mới hiểu rõ hơn về ngày hội cách mạng ở Trung Quốc đã thực sự diễn ra như thế nào?
Tôi tin rằng Ba Kim đã truyền đạt chân thành những gì ông viết về Cuộc Cách mạng Văn hoá Vô sản. Tôi tin rằng ông không nói dối, không viết ra những câu chuyện phi lý trong những tác phẩm vô nghĩa. Hơn nữa, tôi tin rằng ông chưa kể hết tất cả những điều ông biết, bởiCuốn sách “Cách mạng Văn hoá Vô sản”, theo cách Ba Kim mô tả, bắt đầu một cách ồn ào, sôi động với những trống cờ và thanh âm đầy hào hùng. Trong bầu không khí đó, các nhà văn, nhà thơ, nhà báo, và hoạ sĩ đều bị nhắc đến, và bị đẩy ra phái “tạo phản” để bị xử phạt vì các tội ác đối với cách mạng. Ba Kim mô tả cảm giác mình trở thành “ác bá văn chương” và bị coi là “tên phản cách mạng không đội mũ cao”, bị đuổi khỏi giới văn nghệ.
Không chỉ Ba Kim, nhiều người khác như Lưu Thiếu Kỳ, Trần Nghị và các tác gia khác cũng trải qua những thời kỳ khó khăn. Các trí thức vào thời kỳ đó thể hiện sự nhạy cảm và tác động từ bên ngoài. Có những người như Dĩ Quần và Lão Xá đã tự sát, một số khác như Phó Lôi giải thích rằng “Kẻ sĩ, có thể giết, không thể làm nhục”.
Cuốn sách này mang đến một cái nhìn sâu sắc về thời kỳ đen tối của lịch sử, với những bi kịch và trăn trở của những người trí thức và văn nghệ sĩ.Cuốn sách đầy cảm xúc và mô tả số phận đắng cay của những trí thức trong thời kỳ cách mạng văn hóa vô sản. Tác giả ôn lại những trải nghiệm đen tối của Ba Kim và những người khác, nhưng cũng không quên kể về sự kiên cường và dũng khí của họ. Những chi tiết như vậy giúp chúng ta hiểu rõ hơn về thời kỳ khó khăn ấy. Đọc xong, bạn sẽ cảm thấy như mình đang trò chuyện cởi mở với một người bạn thân về một chủ đề sâu sắc.Trong một số trường hợp, việc mắc phải hiện tượng “cháo lú” giống như ở Trung Quốc. Mọi người tự hành hạ bản thân bằng cách tự phê bình, không phải để rút kinh nghiệm từ quá khứ, mà là tự phê bình (trước Đảng, tức là trước cấp trên) bằng cách thể hiện, thổi phồng lên những khuyết điểm của bản thân càng lớn càng tốt, sau đó tự khiển trách bằng những lời lẽ xúc phạm nặng nề nhất, đôi khi còn bịa đặt những tội lỗi mà bản thân không hề có với cách mạng, tự mình đánh mình (giống như Ba Kim). Khi xem phim “Bạch Mao Nữ 4”, mọi người phun lên màn ảnh khi thấy tên chủ địa xuất hiện. Khi xem kịch, mọi người ném đá vào diễn viên đóng vai cường hào. Tất cả những điều đó đã được nhập khẩu mạnh mẽ từ Trung Quốc đỏ. Tôi đã thấy được tác dụng của “cháo lú” như thế nào. Khi một nhóm người đã mắc phải “cháo lú”, tức thì sẽ xuất hiện hiện tượng “lên đồng tập thể”. Con người bỗng chốc mất đi tính người, tính thú ào ào bùng lên. Cuộc truyền thống áp bức, giết chóc tổng thể, không cần đến những người cộng sản nữa, dân chúng tự giết nhau, đó là đủ.
Tuy nhiên, để công bằng, mức độ tàn bạo của những cuộc “vận động” cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thấp hơn nhiều so với Trung Quốc, quy mô cũng nhỏ hơn nhiều. Đơn giản vì Bắc Việt Nam là một quốc gia nhỏ, mọi thứ ở đó chỉ “tiểu” thôi, không thể “đại” (ở Trung Quốc đã thêm chữ “Đại” vào, để nó mạnh mẽ hơn).
Đáng tiếc, số phận con người không ai khác, cả cách mạng lớn hay cách mạng nhỏ cũng vậy, mỗi con người chỉ có cuộc sống của mình để sống. Người Trung Quốc cũng giống như người Việt Nam, không có gì khác biệt. Bi kịch của một con người không kém cạnh bi kịch của cộng đồng, đôi khi còn nghiêm trọng hơn. Bởi vì một con người là cái cụ thể, cái thấy được, cái biết được, rõ ràng hơn bất kỳ con số thống kê nào. Có người sẽ nói: dân Trung Quốc hơn một tỷ người, Đại Cách mạng Văn hoá Vô sản đã giết hàng chục triệu người mà vẫn ồn ào? Nhưng nếu có chết vài chục triệu hoặc nhiều hơn, vẫn chưa tới một phần trăm. Xin thưa: một con người trong một triệu, hoặc mười triệu, vẫn là một người như chúng ta, có gia đình, có thân thích, có niềm vui nỗi buồn, có đau khổ, có hạnh phúc…, có tất cả những gì là “đàn em” của con người, theo cách ngôn của Marx.
Trước đây, khi còn ở trong nước, mỗi khi kết thúc một đợt học tập do Đảng chỉ đạo, cán bộ phải viết bản tổng kết, tức là viết ra những điều họ đã học được. Tôi thấy muốn viết ra bản tổng kết của mình sau khi đọc “Tuỳ Tưởng Lục”. Vậy, tôi đã học được điều gì?
Một là, xã hội cộng sản luôn thù nghịch với trí tuệ. Mọi trí tuệ khác ngoài chính trị, chỉ có thể tồn tại nếu làm tay sai trọn vẹn cho chính trị. Tay sai không trọn vẹn sẽ bị loại trừ. Đảng chỉ đạo như vậy, nhất quán như vậy. Từ đó mà sinh khẩu hiệu “chính trị là thống soái”. Nghĩa là chính trị đứng trên hết, chỉ huy tất cả. Đằng sau khẩu hiệu về vị thế ấy là quyền lực thực sự của Đảng Cộng sản nói chung, của một lãnh đạo, hoặc của một nhóm lãnh đạo, nói riêng. Không ai khác được hoặc len chân vào đó. Trí tuệ không có giá trị gì. Đảng là ánh sáng soi đường, là lương tâm, là trí tuệ nhân loại. Đảng độc tôn, độc đoán, muốn làm gì thì làm. Không ai được phản đối. Thậm chí không thể nói ý kiến khác với Đảng (vì khi Đảng nói A lúc Đảng nói B, không ai biết theo ý nào). Hãy nằm sấp mặt xuống và nghe lệnh, rồi chỉ cần theo chiều gió, tha hồ bày tỏ ý kiến. Trong một xã hội kín đáo như thế, Đảng Cộng sản sai bao nhiêu thì toàn xã hội phải chịu trách nhiệm. Người dân không có quyền trừ quyền cúi đầu và ca tụng sự cao quý của kẻ cai trị. Từ đó, trở nên tung hô Chủ nghĩa Mác – Lênin là vĩ đại, là vô địch, là sự thắng lợi bất diệt, tồn tại mãi mãi. Khi chế độ được thiết lập, là lúc mỗi người có ý kiến riêng được sử dụng hay không.Trong môi trường xã hội nơi tất cả phương tiện truyền thông phục vụ cho quyền lực, dân chúng thường dần bị lạc hướng. Ba Kim đã chia sẻ về trải nghiệm của mình: “Tôi đã không còn là chính mình từ năm 1970 và những năm 1967-1968. Dưới sự đe dọa và phải tuân theo lề thói của phe “tạo phản” từ tháng 9 năm 1966, tôi suy nghĩ hoàn toàn theo cách của người khác; khi họ kêu gọi ‘Đả đảo Ba Kim!’, tôi cũng ngẩng đầu đáp lại.” Ba Kim và nhiều người khác đã trải qua những giai đoạn khó khăn trong việc ổn định tư duy và bản thân.
Những biểu đạt của Ba Kim là một phản ứng tự nhiên trong bối cảnh xã hội bị kiểm soát chặt chẽ. Những trí thức, nhà văn như Ba Kim thường bị coi là đe dọa đối với quyền lực và chúng bị áp đặt “cháo lú” để kiểm soát. Tuy nhiên, sáng suốt của trí thức có thể giúp họ nhận ra bản chất của quyền lực và kiểm soát xã hội.
Việc Ba Kim chưa dừng lại ở việc sự nén lửa trong việc thể hiện quan điểm cá nhân chỉ đến từ việc ông vẫn còn phải sống trong không gian kiềm chế của chế độ. Ông còn e ngại trước những hậu quả có thể xảy ra nếu nói quá thẳng và chất chứa.
Tuỳ Tưởng Lục của Ba Kim vẫn là một tác phẩm đáng giá, đem lại cái nhìn sâu sắc và đa chiều về xã hội. Việc Trung Quốc muốn đúc tượng đồng của ông có thể coi là một cách để hơn ức. Qua những tác phẩm của mình, Ba Kim đã thể hiện rõ sự tổn thương và sự thách thức đối với quyền lực của một xã hội áp đặt và kiểm soát.