Tuyển Tập Truyện Ngắn của Lỗ Tấn: Một Kho Tàng Văn Học Đầy Ý Nghĩa
Trong cuốn sách này, ta được thảm thiết với từng đoản thiên mà Lỗ Tấn đã sáng tác từ năm 1918 đến năm 1925. Với chất văn sắc bén, những câu chuyện ngắn này mở ra cánh cửa tới xã hội Trung Quốc xưa và nay, phản ánh sắc màu phong kiến, sự bách hại của lịch sử, và những tư tưởng mới mẻ. Nhân vật của Lỗ Tấn khắc họa từ người nông dân túng thiếu cho đến thanh niên phấn đấu trong cuộc cách mạng tư duy.
Mỗi trang sách như một mảnh lịch sử sống động, giúp chúng ta hiểu rõ hơn về một Trung Quốc chịu ảnh hưởng nặng nề từ phong kiến, tư bản, và thực tế xã hội phức tạp. Điều khiển trách của tác giả không chỉ dừng lại ở việc phơi bày vấn đề mà còn khích lệ độc giả suy ngẫm và tìm kiếm giải pháp. Đọc xong, ta không thể không ngạc nhiên trước sự tiêu cực và cần thiết của việc thay đổi và cải thiện.
Dù sau này Lỗ Tấn đã chuyển sang viết tản văn tạp cảm hơn, tuy nhiên, giá trị của các tác phẩm ngắn vẫn to lớn không hề giảm sút. Chúng vẫn như những chiếc gươm sắc, xuyên thấu tận đáy tâm hồn, thúc đẩy bất kỳ ai đọc qua phải suy ngẫm và trăn trở. Văn chương của Lỗ Tấn không chỉ là về tiểu thuyết mà còn về tôn vinh lòng nhân bản và đột phá văn học.
Nếu bạn đang tự hỏi về một cuốn sách đong đầy cảm xúc và tri thức, Tuyển Tập Truyện Ngắn của Lỗ Tấn là lựa chọn lý tưởng. Đọc và cảm nhận, bạn sẽ dần thấu hiểu vẻ đẹp và ý nghĩa sâu sắc phía sau từng trang sách.”Nhất đại bất như nhất đại” khi dịch sang tiếng Việt, nên chúng ta nên nói “mỗi đời một tệ”, tuy nhiên, tôi đã chọn dịch chính xác theo “một đời chẳng bằng một đời”, để mở rộng cách diễn đạt trong tiếng Việt. Có một số điều cần lưu ý với người đọc: đôi khi có những từ ngữ mà dịch không đúng hoặc không thể dịch chính xác, như “ba tiêu phiến” dịch là “quạt lá vả”, “tùng hoa phạn” dịch là “cơm gạo hoa khế”. Cũng có những từ ngữ mà không thể tìm thấy trong từ điển, không biết hỏi ai, nên dịch một cách đoan truỵ, ví dụ bốn loại chim “đạo kê, giác kê, bột cô, lam bối” dịch là “sáo, cưởng, chim gâu, chim sả”, có thể chỉ chính xác đến hai loại sau. Việc dịch mạo hiểm đó là một sai lầm lớn, hy vọng sau này sẽ được sửa chữa để đúng. Ngoài ra, công việc dịch này không thực hiện liên tiếp mà được thực hiện cách đều. Hai cuốn “Sóng gió và Làng quê” chỉ được dịch sau khi hòa bình thắng lợi trở về thủ đô; “Nhật ký người điên” dịch vào năm 1949, còn bốn cuốn khác dịch vào năm 1947, tất cả trong thời kỳ kháng chiến. Có thể việc dịch theo cách đều đó đã khiến cho thứ tự của các tác phẩm không được xuất bản liên tục, mặc dù đã kiểm soát qua nhiều lần. Trong phần Tiểu dẫn Cận đại đoản thiên tiểu thuyết tập, Lỗ Tấn đã nói: “Thứ văn chương làm bia kỷ niệm một thời đại, không phải lúc nào cũng có, và nếu có, thì chín phần mười là những bộ sách lớn. Chỉ với một cuốn tiểu thuyết ngắn mà tạo ra một cung điện lớn, là nơi ẩn chứa tinh thần thời đại, thật sự là điều hiếm thấy” (Tam nhàn tập, trang 132). Trong phần Tiểu dẫn “Người nghèo” của Dostoevsky, Lỗ Tấn đã nói: “… Khai quật đến tận tâm hồn, khiến người ta trải qua nỗi đau và tổn thương, nhưng chính từ trong nỗi đau đó, bằng cách băng bó, chữa lành, ta có thể thoát khỏi cảm giác đau khổ để tìm lại con đường sống” (Tập ngoại tập, trang 100). Đó là cách Lỗ Tấn nhấn mạnh giá trị và tác dụng của truyện ngắn đối với thế giới văn học, và cũng như của một danh tác Nga, nhưng tôi nghĩ rằng truyện ngắn của ông cũng đáng để như vậy. Cái “cung điện lớn” đó, không chỉ là “hiếm thấy” mà còn là “hiếm có”, có lẽ chỉ một số ít “thấy” được chứ? “Khai quật đến tận tâm hồn”: liệu truyện ngắn có thể “khai quật” sâu đến đâu? Cái “sâu” ấy thực sự khó phát hiện với đôi mắt hạn chế của chúng ta. Với niềm tin ấy, tôi đã cố gắng hết sức, tập trung tâm trí và tâm hồn vào công việc dịch này, nhưng không dám khẳng định rằng mình đã thấu hiểu được sự lớn lao và sâu sắc của tác giả. Gần đây, khi đọc tạp chí Tân kiến thiết, trong một số bài, tôi nhớ ra rằng mình là người Việt Nam, và dù cẩn trọng nhưng vẫn không tránh khỏi sai sót. Vì vậy, khi cuốn Tuyển tập này ra đời, tôi rất mong được sự chỉ dẫn từ bạn đọc. Tôi cũng hy vọng bạn đọc đừng nghĩ rằng phần kết thúc này là sự tránh trách nhiệm. Phan Khôi (Viết vào ngày 28 tháng 7 năm 1955 tại Hà Nội) Tôi đã từng dự định viết cho chú AQ một câu chuyện trong suốt mấy năm qua, nhưng một bên muốn viết, một bên lại e dè. Điều đó chứng tỏ rằng tôi không thực sự có tư cách là một nhà văn. Cũng như thường nói rằng bút sẽ được gắn với những nhân vật vĩ đại. Nhưng rốt cuộc, văn chương là nhờ những nhân vật vĩ đại mà trường tồn, và nhờ văn chương mà những nhân vật đó được truyền miệng. Cuối cùng, là văn chương nhờ nhân vật hay nhân vật nhờ văn chương mà truyền miệng, cũng là khá khó giải thích. Nhưng đương nhiên tôi vẫn nghĩ đến việc viết câu chuyện cho chú AQ. Rốt cuộc, tâm trí tôi như bị ám ảnh bởi điều gì đó. Nhưng ngay khi tôi vung bút thành văn “tốc hủ”, tôi cảm thấy nhiều khó khăn. Thứ nhất, là vấn đề về tiêu đề của câu chuyện. Đức Thánh có câu: “Danh bất chính tắc ngôn bất thuận”. Điều này quan trọng với nhiều loại truyện như liệt truyện, tự truyện, nội truyện, ngoại truyện, biệt truyện, gia truyện, tiểu truyện… nhưng khá khó tìm một cái tên phù hợp. Gọi là “liệt truyện” à? Đây không phải là một nhân vật như những nhân vật quan trọng trong lịch sử! Gọi là “liệt truyện” sao? Và tôi cũng không phải làKhi nói đến “ngoại truyện”, bạn có bao giờ tự hỏi về “nội truyện” ở đâu chưa? Trong khi nói đến “nội truyện”, nhưng nhớ rằng, AQ quyết không phải là thần tiên đâu. Có thể sử dụng thuật ngữ “biệt truyện” cho phù hợp. Đúng là ông tổng thống lớn, nhưng chưa bao giờ cho viện bảo tàng quốc gia chép “bản truyện” của AQ. Mặc dù trong sách sử thi nước Anh không đề cập đến cuộc chơi bài, thì nhà văn hào Dickens đã sáng tác về đề tài đó trong “Liệt truyện những người đánh bạc”. Việc tạo ra một bộ “đại truyện” khá phức tạp, nhưng không phải là không thể. Ngoài ra, còn có thuật ngữ “gia truyện” nữa, nhưng liệu chúng ta có thực sự có mối quan hệ gia đình hay không? Có thể sử dụng “tiểu truyện” cho gần gũi hơn.
Khi tiếp tục thảo luận về văn tế, những cuốn sách có thể được coi là “bản truyện” đều cần phải được trau chuốt cẩn thận. Dù lời văn của tác giả có thể thường gặp, nhưng không thể phủ nhận sức hút của chúng. Chúng ta cũng không thể không nhắc đến thuật ngữ “chính truyện” mà các nhà văn tiểu thuyết không chính thống vẫn thường sử dụng. Tên gọi “chính truyền” có vẻ hơi lẫn lộn, nhưng vẫn giữ được sức hút đặc biệt.
Ngoài ra, việc biết AQ thuộc họ gì cũng không hề dễ dàng. Những câu chuyện về AQ và gia đình họ Triệu đầy rẫy kịch tính và tràn ngập cảm xúc. Việc tìm hiểu về tên thật của AQ cũng không dễ dàng chút nào. Đối với một cây bút lừng lẫy như AQ, việc xác định tên thật là một thách thức thực sự.
Những khoảnh khắc hồi tưởng về AQ và những câu chuyện thú vị của ông khiến chúng ta dễ dàng bị cuốn hút vào thế giới văn học đầy màu sắc và hấp dẫn.Chẳng may khi thỉnh thoảng, việc tra cứu thông tin cũng gặp khó khăn. Ví dụ như khi tôi đã không tìm thấy thông tin về Tân Thanh Niên, về chữ Trung Quốc viết theo cách Tây, như cách ông Trần Độc Tú đã thảo luận. Tôi phải kể đến trải đời điều hòa: cuốn án AQ không hề có đề cập tới “A Quay” một cách chắc chắn. Qua tuy nhiên, việc sử dụng chữ Tây và phiên âm Anh để ghi chép thông tin cũng là một giải pháp tạm thời khả thi. Điều này giúp tôi tiếp tục nghiên cứu mà không còn gặp trở ngại lớn.
Về quê quán của AQ, mặc dù không rõ người này có phải là người họ Triệu hay không, tôi vẫn hy vọng rằng thông tin từ Quận danh bách gia tính có thể giúp tôi tìm ra. Nỗi lo lắng ban đầu đã được giảm nhẹ khi tôi chắc chắn rằng thông tin về A là chính xác. Điều này giúp tôi có thể tiếp tục nghiên cứu và chia sẻ với những người quan tâm vào tương lai.
Nếu bạn đang muốn khám phá thêm về câu chuyện của Lỗ Tấn, đừng bỏ lỡ bộ sách ngắn truyện đầy thú vị của ông!