Cuốn sách “Văn minh vật chất của người Việt” của nhà nghiên cứu mỹ thuật Phan Cẩm Thượng là một tác phẩm đáng giá về văn minh vật chất tại Việt Nam trong thời kỳ “tiền công nghiệp”. Xuất bản vào năm 2011, cuốn sách đã được trao giải B giải thưởng sách quốc gia năm 2022.
Cuốn sách được chia thành năm chương, khám phá nhiều khía cạnh của đời sống, văn hóa, và sinh hoạt của người Việt từ thời cổ đại đến hiện đại. Với nội dung bao gồm:
1. “Những mặt cắt lịch sử”: Điểm qua những giai đoạn quan trọng trong lịch sử văn minh vật chất của người Việt.
2. “Từ bàn tay đến công cụ”: Nêu bật vai trò của công cụ lao động trong cuộc sống hàng ngày của người Việt.
3. “Cơm tẻ là mẹ ruột”: Trải nghiệm ẩm thực của người Việt và tầm quan trọng của cơm trong đời sống vật chất và tinh thần của họ.
4. “Sống dầu đèn chết kèn trống”: Khám phá về sinh hoạt văn hoá và giải trí của người Việt, bao gồm cách họ giải trí và thư giãn trong thời gian rảnh rỗi.
5. “Nghệ thuật và hành vi”: Đề cập đến nghệ thuật và các hành vi văn hoá của người Việt, từ trang trí đến các nghi lễ và quan niệm tâm linh.
Cuốn sách không chỉ muốn “trình bày trọn vẹn ‘phần hồn’ của đồ vật người Việt”, mà còn bày tỏ sự tiếc nuối trước sự biến dạng của đời sống vật chất của người Việt hiện đại. Để minh họa cho cuốn sách, hơn 960 bức ảnh và 505 hình minh họa được sử dụng, nhiều trong số đó được sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm cuốn sách “Kỹ thuật của người An Nam” của Henri Oger, và một số được vẽ và ký hoạ bởi chính Phan Cẩm Thượng. Mời các bạn đón đọc cuốn sách Văn Minh Vật Chất Của Người Việt của tác giả Phan Cẩm Thượng
► Đừng bỏ qua sách này nhé:
Từ lâu tôi có nhận xét hình như trong những người làm văn học nghệ thuật, hay cả những người làm văn hóa nói chung, thường thầy các họa sĩ có kiến văn rộng và tốt hơn, hoặc ít ra quan tâm đến những điều đó nhiều hơn. Chắc rồi phải tìm cách cắt nghĩa, và những người làm vãn hóa nghệ thuật thuộc các ngành khác -kể cả tôi đương nhiên – cũng nên ngẫm nghỉ để mà soi lại mình.
Cũng chính các họa sĩ là những người thường quan tâm, hiếu biết sâu sắc, cặn kẽ nhất đời sống thực của nhân dân, không phải nhân dân nói chung mà là những người lao động, đặc biệt lao động thủ công, cách thức lao động, sản phẩm lao động của họ, cặn kẽ và sâu sắc đến ý nghĩa từng động tác lao động của những người vô danh ấy, ý nghĩa tiềm ẩn đến mức có thể chứa đựng trong ấy hằng nghìn năm lịch sử không chỉ của nghề nghiệp, mà cả lịch sử của xã hội, của đất nước, của con người, phổ biến toàn nhân loại, đồng thời lại đặc thù của từng dân tộc, dân tộc ta… mà ta chi có thể thật sự yêu đến thiết tha khi thấu hiểu tới tận cùng qua chính lao động và những sản phẩm lao động đó. Tôi thưởng để ý thấy các họa sĩ rất yêu các đồ vật, đặc biệt các đồ vật thủ công, càng thô sơ càng quý. Họ nâng niu, ân cần gìn giữ chúng như những bảo vật, trưng bày ở những chỗ đẹp nhất, cao quý nhất trong nhà. Trong khi các đại gia và quan chức thì giành những vị trí ấy cho những chai rượu ngoại thượng hạng hay những của lạ mang từ bên tây bên Mỹ về. Củng là hai thứ văn hóa vậy.
Trong các họa sĩ quen biết, tôi may mắn có một người bạn thân, một họa sĩ và là một nhà ván hóa thật độc đáo và đặc sắc: anh Phan cẩm Thượng.
Cuốn sách các bạn đang cầm trong tay đây là công trình mới nhất của anh: Vãn minh vật chất cùa người Việt. Hẳn có thể có nhiều cách hiểu thế nào là “văn minh vật chắt”. Thôi thì ở đây chắc không có gì trở ngại lắm khi ta tạm đồng ý với cách hiểu của Phan cẩm Thượng: cái cách con người, trong khi tất yếu phải va chạm với tự nhiên, đã làm ra các công cụ để mà tồn tại, từ tồn tại vật chất cho đến tồn tại về tinh thần, và cũng chính qua đó mà hình thành, phát triển các moi quan hệ với nhau, giữa con người với con người.
Ở phương Tầy có một thứ chủ nghĩa gọi là “chủ nghĩa đồ vật” (chosisme), tôi không hiểu lắm về cái chủ nghĩa đó, nhưng hóa ra có thể đọc lịch sử của loài người qua những đồ vật do con người làm ra, và có thể đó là lịch sử khách quan và chính xác nhất. Ai cũng biết có nhiều thứ lịch sử: lịch sử của các triều đại, lịch sử của các vị vua, lịch sử của các tướng lĩnh lừng danh, lịch sử của các anh hùng, lịch sử của các danh nhân đủ loại, lịch sử của các chế độ, lịch sử của những biến động xã hội…, lịch sử được viết nên bởi cuộc đời, hành tung của các nhân vật lớn lao và bởi các sự kiện vang dội đó. Nhưng thử nghĩ lại mà xem: tất cả những thứ lịch sử to tát và oai phong ẩy đều bắt đầu, đều do, đều được quyết định, biến đổi, phát triển, nảy nở, tàn lụi… bởi cái cóng cụ bàn tay con người làm ra, sử dụng, cách con người sử dụng chúng. Hơn nữa tất cả những thứ lịch sử trên kia đều do con người viết sau khi chúng đã diễn ra, mà con người thì bao giờ cũng được (hay bị) những động cơ riêng, hoặc chủ quan hoặc khách quan thúc đẩy, họ viết vì một cái gì đó, cho một cái gì hay một ai đó. Cho nên, nói cho cùng và nói thế này hằn cũng là không quá đáng đâu, tất cả các thứ lịch sử ấy đều không thật hoàn toàn đáng tin. Chúng đều vị lợi. Duy chỉ có những đồ vật đo con người làm ra trong khi đối mặt với tự nhiên để tồn tại, và từ đó để sử dụng trong giao tiếp với nhau, là “trung thực” hơn cả, chúng cho ta một lịch sử khách quan và chính xác nhất về con người, đương nhiên nếu ta biết cách đọc được ở chúng, qua chúng.
Phan cẩm Thượng đã cố gắng làm công việc ẩy, cuốn sách này của anh cung cấp cho ta một lịch sử của dân tộc và đất nước mình, qua các đồ vật do con người từng sống, từng lao động để có thể sống, tồn tại, phát triển, thịnh vượng, suy vong, trầm luân, đau khổ và hạnh phúc… từ ngày trên đất này có con người cho đến hôm nay. Và hóa ra đó là một lịch sử không chỉ cụ thể mà còn hết sức toàn diện, có lẽ không hề thiếu mặt nào, góc độ và cấp độ nào trong sự sống của con người Việt từ thượng cổ cho đến nay. Người ta thường gọi thời kỳ chưa được ghi chép lại bằng chữ viết là thời tiền sử; chưa hẳn đâu: đồ vật do con người làm ra, kể từ cây gậy để ném chết con thú của người hềng hoang, cũng là lịch sử, chứ sao! Phan cẩm Thượng gọi đó là lịch sử “văn minh vật chất của người Việt”. Cũng có thể gọi đó là lịch sử văn hóa Việt. Vồ không chi là văn minh, ván hóa “vật chất”. Bộ mặt con người in rõ, có thể là rõ và trung thực hơn hết, trên cái “vật chất” được con người nhào nặn và sắng tạo ấy.
Trước hết là lịch sử của thiên nhiên Vĩệt Nam. Bằng cách nào để biết được thiên nhiên nước ta, sông nước, núi non, đất đai, bùn lầy, nắng mưa, gió bão, lụt lội, hạn hán, nóng lạnh… trên dải đắt này từ khi tổ tiên xa xôi nhất của chúng ta có mặt ở đây? Bằng cách nào để biết được tổ tiên xa xưa của chúng ta đã vất vả và can trường lặn lội từ đâu đến đâu, từ những vùng núi hiểm trở nơi đất rắn như đá đến những châu thổ bùn lầy còn chưa kịp sánh đặc, theo những con đường khó nhọc quanh co nào? Và châu thổ bùn lầy đã được con người Việt cổ chinh phục, thuần hóa vì con người như thế nào, từ đất bùn đẩm nước và hoặc còn mặn chát hoặc còn nồng nặc chua phèn, đã được vắt khô dần, chỉ còn ướt át đủ độ nước trong lành ra sao để có thể trồng cấy được mà sinh sổng?
Học giá Đào Duy Anh đã gọi cuộc vật lộn gian nan và anh hùng của người Việt với đất đai thuở sớ khai đó bằng mấy từ cảm động, ông gọi đó là sự nghiệp “thảm đạm kinh dinh” của tổ tiên ta… Và rồi từ đồng bằng sông Hồng, sông Mã ngày càng trở nên chật chội, người Việt đã mở đường đi về Nam – cũng là Đào Duy Anh nói: “để mở rộng hy vọng cho tương lai” – trên con đường vạn dặm ấy họ đã gặp và phải tiếp tục chinh phục không chỉ những vùng đắt mới nào, mà cả những chất đất mới chưa hề quen, vượt qua được sức kháng cự của chủng để làm ra cái ăn, cái mặc…, những cái đầu tiên gián dị và thô sơ vậy đó mà lại là cơ bản và quyết định để xây dựng giang sơn ra sao?… Hóa ra toàn bộ lịch sử cụ thể nhất và chân thật nhất đó, cái đáy thật sự của ỉịc/1 sử, cái nền để làm nên mọi thứ lịch sử hào nhoáng khác của người Vỉệt đó, lại có thể đọc được, và đọc được một cách đáng tin cậy nhất chẳng hạn qua những… chiếc cày, qua cách cấu tạo và thay đổi theo thời gian dằng dặc hình dáng, cấu tạo, cả chất liệu tạo thành của những chiếc cày và từng bộ phận của chiếc cày, từ cái cán cày, cái điệp cày, cái lưỡi cày, cái dây buộc và cái ách tròng vào vai cổ con trâu…, những thay đối thoạt nhìn chẳng có gì ghê gớm, to tát lắm, nhưng lại ghi dấu sâu hơn và thật hơn mọi sách vở uyên bác. Dấu vết của những chất đất người Việt từng phải gặp và khuất phục trên suốt cuộc trường chinh vạn dạm qua hàng nghìn nám được in rõ, rõ nhất, rõ hơn bất cứ ở đâu khác, bằng bất cứ cách gì khác, trên cái công cụ tưởng chừng vô tri ấy. Vạy đó, cái cày không hề vô tri, nó cũng không câm.
Nó có ngôn ngữ, bắn thân nó là một ngôn ngữ, thệm chí ngôn ngữ chính xác và đáng tin cậy nhất. Vì trằn trọc nhất và lại vô tư nhất, mặc các triều đại, mặc các hệ tư tưởng, các vua chúa và các vị anh hùng. Bởi vì bất cứ ai thuộc về triều đại hay hệ tư tưởng nào, bất cứ vua chúa hay anh hùng nào rồi củng phải ăn cơm do cái cày được biến đổi tài tình ấy đề cày xói loại đất đặc biệt ấy làm ra. Hơn thế nữa, chính những triều đại và những hệ tư tưởng ấy nói cho cùng cũng từng biến đổi, thịnh suy do chính sự thay đổi ở cái cán, cái điệp, cái lưỡi cày ấy… Phan cẩm Thượng cho ta thấy điều đó, cho ta nghe ngôn ngữ đó, cụ thể, sinh động. Cái cày của người Việt. Cả cái thuổng, cái cuốc, cái bừa, cái rìu, cái rựa, con dao, cái rổ, cái rá…, cho đến cái bát ăn cơm, cái gáo múc nước, cái chum muối dưa, cái nồi, cái chảo, cái ông đầu rau, cái kiềng đặt nồi trên bếp… Chúng đều nói, và không chỉ nói về đất đai của con người; còn về trời đất của con người và của xứ Việt, về gió bấc và gió nam, mưa phùn mùa xuân, mưa giông mùa hạ, mưa ngâu mùa thu và mưa đầm mùa đông, lụt hiền lành và lủ hung dữ, về những con sông và những núi non, về các cồn cát chan chan dằng dặc ven biển và những cánh đồng phì nhiêu nuôi nấng hay khô cằn khắc nghiệt thách thức con người…, về tất cả những gì con người Việt phải ứng phó, thích nghi, gìn giữ hay biến đổi kiên trì có thể qua hàng nghìn năm miệt mài, thông minh và dũng cám để mà trường tồn…
Và cuối cùng, qua tất cả những cái đó, tất cả những công cụ con người phải sáng tạo ra và cái cách sáng tạo ra chúng, biến đổi chúng, hiện lên lấ lộ chân dung của chính con người ấy, con người Vỉệt trải suốt lịch sử tền tại của mình. Khuôn mặt dãi dầu của người Việt. Và nữa, tâm hồn họ, tâm tỉnh cùa họ, thất bại và thành công của họ, đau khổ và hạnh phúc, nỗi buồn và niềm vui, hy vọng và tuyệt vọng của họ, ước mơ và chịu đựng của họ…, cái nền làm nên điều ta vẫn gọi là nền văn minh tinh thần của họ, sáng tạo văn học và nghệ thuật của họ; cả nữa đời song tâm linh của họ, tôn giáo, tín ngưỡng và cả mê tín của họ, các vị thánh, các vị thần cùng ma quỳ của họ…
Cả một thế giới Việt, có thể không thiếu bẩt cứ phương diện nào, và lại suốt trường kỳ lịch sử. Tất nhiên là một lịch sử chậm chạp, chậm chạp lắm đến mức không thật chăm chú thì sẽ bỏ qua mất, song có lẽ chính vì thế mà nó càng đáng tin, nó được “viết ra”, khác mọi thứ lịch sử khác, không bị, hay được, thúc đẩy bới bất cứ động cơ nào khác ngoài nhu cầu tồn tại, và phát triển tự nhiên, thiết yếu, không thể cưỡng lại của con người trên đất đai này và giữa thiên nhiên riêng biệt này.
Cuốn sách quý này Phan cẩm Thượng tặng cho chúng ta không chỉ có thế. Còn đáng khâm phục vô cùng sự chăm chút, nâng niu, tận tụy, và cả uyên bác nữa trong công phu của anh để có thể cung cấp cho người đọc sổ lượng hình ảnh đố sộ với 959 ảnh, 505 hình minh họa thật sự đặc sắc do anh say mê và kỳ cóng sưu tầm, hoặc tự anh nghiên cứu hẳn cũng phái rất chăm chú và với rất nhiều quý trọng cùng tình yêu để vẽ lại. Thậm chí có thể nói chi cần in riêng một cuốn sách gồm toàn những hình minh họa ấy thôi cũng đã thành một bộ sử độc đáo về “văn minh vật chất” của người Việt rồi.
Vậy mà vẫn còn chưa hết. Cuối sách còn có hai “công trình” đặc sắc: Một niên biểu tỉ mỉ và có thể gần như hoàn chỉnh về văn minh vật chất của người Vỉệt từ 300.000 năm về trước, khi tổ tiên xa xôi của chúng ta sáng tạo ra những công cụ đá thô SƠỞNÚĨ Đọ… cho đến tận năm 1930 khi người họa sĩ tài hoa Cát Tường sáng tạo ra chiếc áo dài đã trở thành một trong những biểu tượng của vẻ đẹp Việt Nam ngày nay… Theo tôi, trước Phan cẩm Thượng chưa ai lộp được bộ niên biểu cần thiết và nhiều ý nghĩa như thế này. Cũng là một bộ sử quý vậy.
Và còn một bản góp ý cho công trình của Phan Cẩm Thượng do họa sĩ Phan Bảo viết, dài đến mấy chục trang, chi tiết, kỹ lưỡng, hết sức giàu hiểu biết, sâu sắc, tận tình, nhiều tính phản biện, mà Phan cẩm Thượng đã giữ nguyên, đăng trọn. Tôi nghĩ cả hai người đều thật hay, người góp ý và người đã đăng trọn, không cắt một dòng nào. Thêm một lần nữa tôi muốn nói lại ý đã nói tử đầu bài viết này: quả thật trong giới nghệ thuật nói chung, các họa sĩ là những người thật sự “cô văn hóa”, đáng nể, theo nghĩa thật nhất, đúng nhất của khái niệm văn hóa.
Tôi có được xem một số tranh của Phan cẩm Thượng, và dù chẳng hiểu gì mấy về hội họa tôi cũng có thể nhận ra màu chủ đạo trong tắt cả các tác phẩm của anh là màu nâu sồng của đất. Nó đem lại một cảm giác đậm đà sâu lắng đặc biệt chi có đất đai của con người mới tạo nên được. Tôi cũng muốn nói thêm điều này: hình như trong các nghệ sĩ thuộc các ngành văn học và nghệ thuật ở ta chính các họa sỉ, dù họ thường rất hiện đại, đi đầu trong hiện đại, lại cũng thường Việt hơn cả. Họ gần với Đất vã với Việt hơn chúng ta. Và theo tôi Phan cẩm Thượng là một trong những người đứng ở hằng đầu trong số đó. Cũng ỉà người luôn có những suy ngẫm trăn trở về một mối quan hệ trông chừng rất ỉạ giữa đồ vật do con người làm ra, ích dụng, sự cản thiết có ý nghĩa sinh tiỉ của chúng cho sinh tồn của con người trên thế gian…, và lạ lùng thay, với cái nguy cơ chúng có thể trở lại thống trị và làm băng hoại con người, khi con người trở lại thành nô lệ của những đồ vật do chính mình làm ra.
Hãy đọc những dòng cuối sách này của anh:
“Khi tôi viết những trang cuối cùng của cuốn sách này cũng là lúc người Việt đang sôi lên vì kiếm tiền, kiếm việc làm và mua sẩm bất tận. Hàng ngày tôi ngồi ở một quán nước trà ngoài đường và nhìn những dòng xe lúc chạy rầm rầm đến chổng cả mặt, lúc chen chúc nhau đến mức người và xe lèn đầy đường không thể đi được nửa trong hàng tiếng đồng hồ. Tói tự hỏi vì sao người ta ra đến nông nỗi này, vì sao vật chất mà ta sử đụng không còn có ý nghĩa vãn minh nữa mà chi là một đồ vật hữu dụng thuần túy. Xưa kia người theo học thuyết Lão Trang thì cho rằng cơ giới sẽ sinh ra ca tâm, càng nhiều phương tiện con người càng xa với cái bản thể của mình. Những người theo Phật Thích Ca thì mặc áo nột tử trên người chi có mỗi cái bát khất thực. Nhưng ngay câ tôn giáo ngày nay cũng thay đổi, các nhà tu hành cũng đi ô tô, dùng vi tính và ăn mặc rất sang trọng, thì chúng sinh tại sao lại phải khổ hạnh. Cái lý tưởng xã hội thời Nghiêu Thuấn, đi ngủ không nhà nào đóng cửa, ra đường không ai nhặt của rơi có lẽ đã quá xa vời như quá khứ của con người vậy”.
Một lời than thở, hay một cảnh báo?
Hãy cầm cuốn sách này lên, và cùng suy nghĩ.
Nguyên Ngọc, Thu 2010
—-
Chương 1: Những Mặt Cắt Lịch Sử
Buổi tối chúng ta đi ngù, buổi sáng chúng ta thức dậy và đi làm, một trăm năm sống trên trần gian nếu cứ thế cuộc đời con người thật nhàm chán không có gì đáng nói. Neu so với tuổi của trời đất, thì trăm năm của đời người chỉ là cái chớp mắt. May thay và không may thay, cuộc đời cùa mỗi cá nhân thường không mấy khi suôn sẻ. Không mấy ai tự nhận mình là người hạnh phúc. Và chính sự không suôn sẻ trong đời người phá đi cái nhàm chán mà ai nấy cũng vậy thôi. Người Việt sống trên dài đất nắng lắm mưa nhiều, sông và rừng đều nhiều sàn vật, so với dân xứ tuyết và dân sa mạc, quả là có nhiều may mắn. Thế nhưng dải đất này chiến tranh liên miên. Nơi qua lại của nhiều nền vãn hóa. Nơi các nhà nước phong kiến rất nhược tiểu và luộm thuộm trong nền hành chính cùa mình. Nên người Việt cũng thật đa sự, đa tình, vừa thực tế vừa ảo tưởng trong suốt hành trình của mình. Ý thức dân tộc thì rất mạnh mẽ, nhưng ý thức cá nhân thì rất nhợt nhạt.
1. SỸ NÔNG CÔNG THƯƠNG – MỘT NGÀY CỦA NGƯỜI VIỆT
sinh hoạt vật chất của một con người, một gia đình hay một cung đình có lẽ không có gí bí ẩn, nhưng cũng không quá hiển hiện với trí tò mò của ta. Đôi khi chí là chuyện nhỏ như một người bình dân thì ăn uống và làm việc thế nào, đôi khi là chuyện ông quan một ngày lên phủ huyện như thế nào, rồi một ngày của vị hoàng đế ra sao đều phản chiếu tập tục sinh hoạt vật chất của một dân tộc. Tại sao người Việt ăn xong hay ngậm một chiếc tăm, tại sao người nông dân thích đi ị ngoài đồng, và tại sao trong cả hoàng cung đồ sộ lại không có lấy một cái phòng vệ sinh, đấy là cả những câu chuyện thú vị. Khảo sát một ngày thường của người Việt, với bốn giai tầng sỹ nông công thương, ngõ hầu cho chúng ta biết dân Việt đã có một đời sống như thế nào, cái gì trong đời sống ấy đã mất, cái gì còn tiếp tục, và cái gì mới được du nhập.
1. Nhà vua thường thức giấc vào cuối giờ dần, khoảng bốn rưỡi sáng, để còn kịp chỉnh trang buổi đăng triều, nếu không phải lên triều, ngài có thể dậy muộn hơn một canh giờ. Một thái giám bưng cho ngài một chén trà thuốc súc miệng, sau khi nhấp trước một ngụm, mới đến hoàng đế, rồi ngài nhổ ngụm nước vào ống nhổ bạc miệng rộng. Ngài vén quần ngồi vào chiếc ghế vệ sinh, dưới có đặt một chậu sành. Hoàng cung phong kiến từ thời Hán có một ông vua bị ám sát ngay trong nhà xí, nên nó không bao giờ được xây nữa. Vua, hoàng hậu và cung nữ đều đại tiểu tiện bằng chậu. Riêng chậu của vua được ngự y giữ lại còn nghiên cứu sức khỏe của ngài ngự qua phân.
Xong xuôi, thái giám dùng khăn mềm lau sạch, rồi thấm một chút mật ong vào hậu môn của ngài. Vua khoan thai đi một bài quyền dưỡng sinh trên phương đình của ngự uyển, cũng tại đó, thái hậu đã chuẩn bị bữa sáng đạm bạc, gồm một ấm trà sâm, một đĩa bánh nhỏ bằng bột gạo trứng và mật ong do đích tay bà làm, một bát miến gà. Tất cả món ăn đều được thái hậu kiểm tra và cho người nếm thử. Hai tên thị nữ sẽ lau người cho ngài bằng nước ấm, thay quần áo trong, rồi khoác ra ngoài áo trong một bộ hoàng bào mầu trắng, thêu rồng vàng, nếu ngài không lên triều. Vua được chải tóc vấn thành búi giữa đỉnh đầu rồi lồng vào đó một mủ miện vàng khít với nhục kháo (búi tóc), xỏ giầy đen bằng nhung. Ngài đến ngự thư phòng bắt đầu duyệt tấu sớ. Trên án thư một dàn bút lông các cỡ đã được rửa sạch sẽ, một nghiên mực đen đã được mài đầy và sánh, một nghiên son thắm cũng đầy như vậy, vài ba cái chặn giấy bằng đá ngọc Tuyền châu, một cuốn sổ giấy vàng ghi lịch trình công việc, và hai chồng công văn từ khắp nơi gửi đến, cái bằng thẻ tre kết sách, cái là sách gấp bìa lụa, cái viết thành quyển trên lụa và giấy cuộn tròn. Sau hai canh giờ phê bút, ngài ngự thay áo và thưởng một ấm trà sen dưỡng tâm.
Quá ngọ chút đỉnh, ngài ra phòng ngoài dùng bữa trưa với ba mươi món, ngài dừng lại đó mươi phút, không đụng tay vào món nào, rồi ban hết cho quần thần thị vệ, rồi lui về phòng riêng dùng một bữa trưa khác lại do đích thân thái hậu, đôi khi chỉ là niêu cơm nhỏ, niêu cá kho tộ, và chút rau luộc. Ngự y sẽ xoa nhẹ lưng cho ngài, dâng một xuyến trà bát bảo, ngài ngủ trưa chừng nửa canh giờ. Hai tên cung nữ quỳ gần đầu long sàng, hai tên khác dùng quạt lông phẩy nhẹ dưới chân, hai tên nữa đứng xa hơn cũng quạt nhẹ vào tạo một luồng khí mát quanh giường, bốn tên thị vệ tay không, mình trần lực lưỡng đứng bốn góc phòng. Trên long sàng, ngài gối trên một gối gỗ sơn son cổ hơi cao, dưới là đệm gấm, bụng phủ chăn lụa mềm, xung quanh buông màn the trắng ngà dệt lồng cảnh Thần kinh thập nhị cảnh (Mười hai phong cảnh đẹp đất đế đô).
Thức giấc trưa, ngài dùng một bát yến hấp đường phèn, xuống thư phòng viết vài bức thư pháp, điểm nhỡn cho một bức họa được vẽ đã nhiều hôm, rồi gặp gỡ vài quan lục bộ đại thần, chiều muộn ngài luyện Thái cực kiếm cùng võ sư, tắm rửa, rồi ra hồ Tịnh tâm, ngắm hoa sen. Sau bữa tối, ngài thay quần áo, duyệt công văn tới tới cuối giờ hợi. Bốn tên cung nữ khỏa thân nằm trước trong chăn để hơi ấm đầy long sàng. Ngài cùng với một ái phi mới tuyển từ thôn quê tuổi trăng tròn long vân khánh hội.
2. Thầy đồ thức dậy muộn, khi mặt trời đã chiếu vào hiên nhà. Ngài vạch quần lá tọa, tồ một bãi vào bụi cây vườn sau, rồi ngâm mấy câu trong Kinh Thì: Quan quan thư cưu. Súc miệng bằng nước chè, lấy vỏ cau khô đánh răng, vục mặt vào chậu nước sành đặt trên chạc cây, ngài vuốt tóc mai vắt qua tai, gọi là tóc mai gọng kính, búi lại búi tóc thấp về phía gáy, ngài nghiêm trang đánh một bát xôi với vừng, ngồi vào án thư nhỏ đặt trên sập, xem qua mấy quyển Tứ thư, Ngũ kinh, chuẩn bị cho kỳ lều chõng tới. Đàn trẻ mươi đứa từ vài làng đã ríu rít ngoài hiên. Chúng xộc vào nhà, đứa đun nước, đứa rửa ấm chén pha trà, đứa bê nghiên đi mài mực, đứa trải chiếu. Thầy đồ bận áo dài đen ra ngoài áo cánh, đội lên đầu khăn xếp, bắt đầu ê a đọc thi thư cho lũ trẻ bò lom khom dưới chiếu viết ám tả. Sau bữa trưa đạm bạc, ngài ngủ dài trên võng, rụi mắt sang chiều, ngài thong thả sang chùa đàm đạo với sư cụ, hoặc ngắm hoa, hoặc thũng thắng đến chơi nhà một sinh đồ làng bên, cùng nhau nói chuyện thế sự và ngâm thơ. Tối đến mẹ thầy đồ đã sắp sẵn lưng cút rượu, đĩa lòng lợn, đĩa lạc rang đặt trên chõng tre thấp ngoài sân, sau đó ngài chong đèn mài mực chép vài đoạn trong kinh sách. Chiếc đèn dầu lạc cứ chập chờn, thỉnh thoảng lại phải khêu bấc, ngài thắp thêm cây nến cho sáng, cháy hết cây nến thì đi ngủ.
3. Khi tiếng chuông chùa điểm lúc cuối giờ dần, chàng nông dân thức giấc rửa mặt qua loa bằng chiếc gáo dừa, quét vội cái sân bằng chổi sể, rồi đánh ba bát cơm với rau dền và muối rang trên mâm chõng tre nhỏ đặt góc sân. Quá giờ mão (từ 5 – 7 giờ sáng) một chút, trời còn mờ sương, chàng dắt trâu, vai đeo cầy ra đồng, giữa giờ thin, khi nắng đã chói chang, thửa ruộng củng đã cầy xong, rít một hơi thuốc lào dài, bèn trở về nhà, không quên cắp theo sọt phân trâu ỉa vãi, và ba con ếch bắt được bên bờ ruộng. Cởi bộ quần áo đi làm, treo lên con sào đầu cối giã gạo sườn nhà, chàng mặc bộ cánh nâu chưa sờn, tuy có vá vài mụn. Bữa cơm trưa độn sắn, nhưng lại có đĩa ếch xào măng. Chàng ngủ một mạch đến đầu giờ chiều, rồi vác cuốc ra bãi xới mầu, chiều tối tranh thủ mò cua bãi, nhẩy xuống sông bơi, rồi quay về rào lại mảnh vườn đến tối mịt. Cả nhà chong ngọn đèn dầu tí xíu, ăn cơm ngoài sân, một ấm nước vối, một rổ khoai. Cô vợ còn giã gạo và giặt quần áo, khi cô cùng chồng chùi chân vào cái chổi lúa, đập mấy cái, leo lên gường và quấn chặt vào nhau một hồi, quay ra thủ thỉ câu chuyện tiếu lâm Tay ải tay ai, rồi ngủ say bí tỉ.
4. Cha con ông phó mộc đến nhà chủ ở làng bên từ tối hôm qua. Gia chủ muốn đóng một rương thờ. Ngủ trên sập và đắp chiếu, hai người dậy sớm, rửa mặt mũi qua loa, rồi đánh một nồi cơm to với rau luộc, cá kho giềng. Trà lá hút thuốc lào chừng đàm đạo với chủ nhà nửa canh giờ, họ giở hòm đồ nghề gồm nhiều tràng, đục, búa, khoan, bào, thước, mực, còn cưa và rìu cầm theo tay. Gỗ đã được pha sẵn, giờ thì họ chỉ việc chế tinh. Thoạt tiên đo gian giữa, nơi sẽ đặt rương thờ, sau tính mực thước sao cho số đo toàn rơi vào những cưng tốt phát về phúc đức và sinh nam tử. Trước tiên họ dựng khung, sau đó sẽ quây ván, trổ và chạm khắc hoa văn, kết thúc là sơn thếp… công việc còn phải kéo dài đến cuối năm, ngày đầu mới tính toán và dựng việc đại khái. Tuy nhiên đầu năm sau họ phải tiến triều, vào bộ lễ sửa sang một số đồ thờ tự trong Thái Miếu. Mặt trời đã đứng bóng, hai cha con thợ mộc, nhẩn nha uống tuần trà, rửa lại điếu bát, đợi ông chủ về uống rượu. Bữa cơm trưa đầu tiên có cả tiết canh vịt và vò rượu đầy. Cả ba sau đó lăn ra phản gỗ gáy khò khò. Giờ mùi họ tỉnh giấc, xúm lại đánh vài ván cờ trêu chọc nhau om xòm, rồi lại bắt tay vào công việc. Buổi tối lại cơm no rượu say, cậu con trai chạy vào làng làm quen với cô hàng xóm, ông bố cùng gia chủ đánh tổ tôm cho tới giờ hợi. Cả đời một người thợ mộc giỏi lắm là dựng được ba chục bộ bàn thờ, nhưng bộ nào cũng đáng là tác phẩm.