Năm 1956, việc biên soạn cuốn sách “Văn Phạm Việt Nam cho các lớp Trung học 1” đã đặt ra hai mục tiêu chính. Mục tiêu đầu tiên là tinh chỉnh cách phân loại từ loại và các quy tắc ngữ pháp một cách hợp lý để tôn trọng những thói quen ngôn ngữ hiện có. Mục tiêu thứ hai là không để sách chỉ giới hạn trong phạm vi dạy học của một lớp cụ thể. Ngày nay, trong cuốn “Văn Phạm Việt Nam giản dị và thực dụng”, mục tiêu đầu không thay đổi. Để tránh làm rối loạn những thói quen ngôn ngữ, chúng tôi đã áp dụng cách phân loại từ loại của cuốn “Việt Nam Văn Phạm 2” thay vì theo cách phân loại mà chúng tôi đề xuất – vì nghĩ rằng đó là cách hợp lý hơn – như trong cuốn “Văn Phạm Việt Nam 3” mà chúng tôi đã soạn thảo. Tuy nhiên, đối với mục tiêu thứ hai – cung cấp tài liệu tham khảo cho giáo viên cũng như học sinh ở mọi trình độ – chúng tôi đã chỉnh sửa và bổ sung cuốn sách “Văn Phạm Việt Nam cho các lớp Trung học” để ra đời cuốn “Văn Phạm Việt Nam giản dị và thực dụng” này.
Hiện nay, môn Văn Phạm trong chương trình Quốc văn vẫn đang khá mới mẻ. Đối với nhiều học sinh trung học, các bài học Văn Phạm từ “thời” lớp Sáu và lớp Bảy không chỉ là quá khứ mờ mịt mà cả kiến thức ngữ pháp khi viết cũng không còn “sáng sủa”. Loại bỏ tình trạng lơ đễnh khi viết văn là một vấn đề quan trọng của học đường. Để đóng góp vào vấn đề này, chúng tôi đã chú trọng tới việc soạn phần “Ứng dụng” với các ví dụ về những lỗi ngữ pháp thường gặp, phân loại từng loại lỗi và cung cấp giải thích và gợi ý sửa chữa sau mỗi câu viết sai.
Với việc đơn giản hóa phần lý thuyết Văn Phạm đến mức có thể cung cấp tài liệu dạy học cho các lớp Sáu, Bảy và tiểu học, cùng với phần “Ứng dụng”, chúng tôi hi vọng cuốn sách Văn Phạm này sẽ trở nên thực dụng khi chia sẻ những kinh nghiệm chúng tôi đã thu thập được trong việc soạn bài giảng và sửa bài nghị luận cho học sinh.
Chúng tôi rất mong nhận được sự phản hồi, sự chỉ bảo từ các chuyên gia cũng như những đóng góp quý báu từ bạn đọc đối với việc phát triển ngôn ngữ tiếng Việt.Các lính binh và người tránh nạn Vương-Mãng (5-22 sau Tây-lịch) đã chấp nhận sống cùng với cộng đồng. Có thể chúng ta đã bắt đầu học tiếng Hán theo giọng Trường-An (sau này là giọng Bắc-Kinh). Việc tiếp xúc với tiếng Hán ảnh hưởng đậm đà đến sự phát triển của tiếng Việt, vì lúc ấy nền học thuật của nước ta chủ yếu là học Hán ngữ. Cách biến hóa của các từ Hán theo phương âm tiếng Việt qua hai cách chính: cách người dân nói (dân hóa) và cách các nhà trí thức nói (nho hóa).
Những từ Hán ngữ nói theo lối nho hóa ngày càng xa rời nguyên âm gốc, đặc biệt khi chúng ta giải thoát khỏi ảnh hưởng đô hộ của Trung Quốc để xây dựng nền độc lập. Các từ Hán ngữ được phát âm theo lối nho hóa sẽ gọi là tiếng Hán-Việt. Còn từ ngữ hóa dân gian đã tạo ra sự gia tăng của số lượng từ Nôm đã có.
Tiếng Hán-Việt có thể được định nghĩa đơn giản là các từ Hán ngữ được phát âm theo phong cách Việt. Ban đầu, đó là các chữ Hán được học trong sách Trung Quốc của các nhà trí thức ta đọc theo giọng Việt. Tuy nhiên, cách đọc của nhà trí thức theo một tiêu chuẩn nhất định. Đó là do phong cách chuyển âm dùng trong từ điển Trung Quốc để chỉ rõ cách đọc của từng chữ.
Chúng ta có thể đọc tất cả các chữ Hán ngữ nhờ cách chuyển âm này, tức là có thể chuyển hóa tất cả các từ Hán ngữ sang tiếng Việt. Tiếng Hán-Việt có hai đặc điểm quan trọng: đầu tiên, về chính tả, có một liên kết chặt chẽ giữa âm và thín. Ví dụ, các từ Hán-Việt bắt đầu bằng nguyên âm chỉ có thể có dấu sắc, hỏi hoặc không dấu; từ khởi đầu bằng phụ âm (l, m, n, ng, ngh, nh) chỉ có dấu ngã hoặc dấu nặng.
Thứ hai, về vị trí tương đối của các từ, từ chỉ định sẽ đứng trước từ được chỉ định, theo ngữ pháp đặt ngược. Ví dụ, trong từ “hắc y,” “hắc” là từ chỉ định, làm rõ ý nghĩa của từ “y.” Trong quá trình phát triển của tiếng Việt, các từ Hán-Việt giữ một vị trí quan trọng. Nhờ từ Hán-Việt, ta có thể Việt hóa để sử dụng tất cả các ngữ từ của ngôn ngữ Hán. Không chỉ vậy, từ Hán-Việt còn là nguồn gốc cho việc sáng tạo từ mới trong văn học, khoa học và kỹ thuật.
Tiếp theo, tất cả các từ không phải là từ Hán-Việt được gọi chung là từ Nôm. Đó bao gồm từ lâu đời mà gốc nguồn không rõ ràng như “buổi,” “nữa,” “những,” “sẽ,” cũng như những từ gốc Hán-Việt được dùng trong từ Nôm với âm vần cũ hoặc đã được biến đổi. Cuối cùng, có cả các từ mượn từ các ngôn ngữ khác như tiếng Pháp và tiếng Môn-Mên, tiếng Thái.Việt-phủ-Nôm luôn là một chủ đề rất thú vị và hấp dẫn. Không dễ dàng xác định được nguồn gốc của các âm trong ngôn ngữ của các dân tộc. Có thể rằng những từ được cho là mượn từ các ngôn ngữ Mên, Thái… không giống những từ mà chúng ta nói giống với các dân tộc đó vì họ đã cùng sống trong hoàn cảnh thiên nhiên và tâm lý tương tự. Cần lưu ý rằng các từ Nôm gốc Hán-Việt hoặc mượn từ một ngôn ngữ khác, về văn phạm đều phản ánh đúng những đặc tính đặc trưng của tiếng Việt. Để phân biệt giữa tiếng Nôm và tiếng Hán-Việt, chúng ta có thể dựa vào một số tiêu chí sau đây. 1) Về ý nghĩa: tiếng Nôm thường khó hiểu và khó dịch ra tiếng thông dụng hơn, trong khi tiếng Hán-Việt thường có thể dịch ra một cách dễ dàng hơn. 2) Về ngữ pháp: tiếng Hán-Việt thường đi ngược với tiếng Nôm ở việc chỉ định, trong khi tiếng Nôm thường theo ngữ pháp xuôi hơn. 3) Trên cấu trúc từ ghép: thành phần Nôm thường kết hợp với thành phần Nôm, và thành phần Hán-Việt kết hợp với thành phần Hán-Việt. 4) Nếu hai từ liên quan mật thiết với nhau về ý nghĩa, thì tiếng Nôm và tiếng Hán-Việt sẽ được kết hợp với nhau tương ứng. Đừng quên đọc cuốn sách “Văn Phạm Việt Nam Giản Dị Và Thực Dụng” của tác giả Bùi Đức Tịnh, nơi bạn sẽ tìm thấy những thông tin thú vị về chủ đề này.