Cuốn sách “Dầu mỏ, tiền bạc & quyền lực” không chỉ là một cuốn sách về ngành công nghiệp dầu mỏ, mà còn là một tác phẩm kỳ diệu tái hiện toàn cảnh lịch sử phức tạp và cuộc đua không ngừng giành quyền lực trong lĩnh vực này. Từ những ngày đầu bắt đầu khai phá dầu mỏ ở Pennsylvania đến những biến cố lịch sử như hai cuộc chiến tranh thế giới và xâm lược Kuwait, cuốn sách đưa người đọc vào một hành trình kỳ diệu xuyên suốt thời gian và không gian.
Tác phẩm này không chỉ tập trung vào các khía cạnh kỹ thuật và kinh doanh của ngành dầu mỏ, mà còn khám phá sâu sắc những mặt tối của quyền lực và tiền bạc mà nó mang lại. Những nhân vật lịch sử như Winston Churchill, Ibn Saud, George Bush và Saddam Hussein không chỉ là những người đứng đầu quốc gia, mà còn là những nhân vật quyết định về sự sống và tồn tại của nhiều quốc gia và dân tộc.
Với sự phức tạp của các tình tiết và sự đa dạng của các nhân vật, cuốn sách mở ra một thế giới đầy kỳ quan và thách thức. Nó không chỉ là một cuốn sách nghiên cứu về ngành công nghiệp dầu mỏ, mà còn là một tác phẩm nghệ thuật kinh điển, đưa ra cái nhìn sâu sắc và tổng quan về một trong những yếu tố quyết định của nền kinh tế và chính trị thế giới. Mời các bạn đọc cuốn sách Dầu Mỏ, Tiền Bạc & Quyền Lực của tác giả Daniel Yergin
► Đừng bỏ qua sách này nhé:
LỜI GIỚI THIỆU
Trong nền Kinh tế toàn cầu ngày càng phụ thuộc vào năng lượng như hiện nay thì dầu mỏ giữ vai trò quan trọng hàng đầu. Giá dầu ảnh hưởng tới sự phát triển nền kinh tế toàn cầu và hầu như mọi ngành công nghiệp đều chịu tác động rất lớn bởi những biến động của nguồn tài nguyên quý giá này.
Chỉ trong vài tháng qua, giá dầu đã tăng đột ngột, ảnh hưởng tới nền kinh tế toàn cầu. Tháng 7 năm 2008, giá dầu lần đầu tiên đạt kỷ lục trong lịch sử với mức giá 150 đô-la/thùng. Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) cũng vừa công bố báo cáo mới nhất về thị trường dầu mỏ thế giới. Nhu cầu tăng mạnh ở các nước đang phát triển và những căng thẳng về nguồn cung hiện nay dự báo “một bức tranh thị trường dầu mỏ u ám trong trung hạn”.
Dầu mỏ ngày càng chứng tỏ vai trò quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu, đặc biệt là trong bối cảnh chính trị thế giới nói chung và Trung Đông nói riêng có nhiều biến động khiến giá dầu không ngừng leo thang. Thực tế đang chứng minh rằng thế giới sẽ dần dần được vận hành bởi động lực là dầu mỏ cho đến khi nhân loại tìm ra được một loại nhiên liệu khác đủ sức thay thế hoàn toàn, mà con đường đó dường như còn xa…
Nằm trong sự ảnh hưởng chung đó, Việt Nam cũng không tránh khỏi những biến động và chịu ảnh hưởng sâu sắc từ những biến động trong ngành dầu mỏ. Giá xăng và nhiên liệu tăng cao ảnh hưởng nghiêm trọng tới nền kinh tế quốc gia và đời sống của người dân.
Nhận thấy tầm quan trọng của dầu mỏ trong đời sống kinh tế, chính trị quốc tế, PetroVietnam đã hợp tác với Alpha Books, Trung tâm Hợp tác Trí tuệ Việt Nam (VICC) và NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật xuất bản cuốn sách mang tên Dầu mỏ, tiền bạc và quyền lực – Thiên sử thi vĩ đại nhất thế kỷ XX. Như cuốn sách cho thấy, đằng sau rất nhiều cuộc chiến tranh, xung đột, va chạm, liên kết, liên minh, có một nguyên nhân luôn thường trực, đó là dầu mỏ. Dầu mỏ không còn giới hạn là một thứ nhiên liệu lỏng đơn thuần mà đã trở thành một thứ vũ khí mang màu sắc chính trị, kinh tế, dĩ nhiên là cả tôn giáo, văn hóa…
Đây là một cuốn sách trên 1.200 trang khắc họa sâu sắc toàn cảnh lịch sử phát triển và vai trò của ngành dầu và các sản phẩm lọc hóa dầu. Tác giả của cuốn sách, Daniel Yergin là một chuyên gia về các vấn đề toàn cầu và dầu mỏ. Ông là Chủ tịch Hiệp hội nghiên cứu năng lượng Cambridge, một cơ quan tư vấn hàng đầu về năng lượng quốc tế. Ông cũng là đồng tác giả cuốn Energy Future (Năng lượng tương lai). Một cuốn sách được giải của ông là Shattered Peace (Nền hòa bình bị phá bỏ) đã trở thành tác phẩm lịch sử kinh điển về những nguồn gốc của Chiến tranh Lạnh. Cuốn The Commanding Heights (Những đỉnh cao chỉ huy) của ông đã được xuất bản tại Việt Nam và được độc giả đánh giá cao.
Chúng tôi tin rằng, tác phẩm đầy giá trị này của Daniel Yergin – Dầu mỏ, tiền bạc và quyền lực sẽ giúp độc giả Việt Nam, đặc biệt là những người hoạt động trong lĩnh vực dầu khí và năng lượng hiểu biết sâu sắc hơn về các cuộc giao tranh quyền lực nóng bỏng, sự giàu có của các cường quốc, nguyên nhân cội rễ của các cuộc xung đột Trung Đông, vai trò của các quốc gia Vùng Vịnh trong nền kinh tế toàn cầu và những biến động chính trị trong khu vực ảnh hưởng đến toàn thế giới…
Xin trân trọng giới thiệu tới độc giả.
TS. TRẦN NGỌC CẢNH
Tổng giám đốc Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam
—
Phần I:
VỀ NHỮNG NGƯỜI SÁNG LẬP
1. Sự khởi đầu: Nỗi ám ảnh về dầu
Sự biến mất của số tiền 526,08 đô-la là cả một vấn đề. Vào những năm 1850, đồng lương của một giáo sư chẳng lấy gì làm sung túc. Vì vậy, để có thêm thu nhập, năm 1854, Benjamin Silliman Con, con trai một nhà hóa học vĩ đại người Mỹ, đồng thời cũng là một giáo sư hóa học danh tiếng tại Đại học Yale, đã tham gia vào một dự án nghiên cứu của một nhóm các nhà xúc tiến kinh doanh và doanh nhân với tổng mức thù lao là 526,08 đô-la. Nhưng mặc dù đã hoàn thành công việc, ông vẫn không nhận được số tiền thù lao đã cam kết. Tức giận, Silliman muốn biết xem số tiền đó đã biến đi đâu. Sự giận dữ của ông nhằm vào những người đứng đầu nhóm này: George Bissell, một luật sư đến từ New York, và James Townsend, chủ tịch một ngân hàng ở New Haven. Tuy nhiên, Townsend luôn né tránh vì e ngại những người gửi tiền tại ngân hàng của ông sẽ không yên tâm khi biết ông đang tham gia một hoạt động kinh doanh đầy tính đầu cơ như thế.
Bissell, Townsend và những thành viên khác trong nhóm kinh doanh này dồn hết tâm trí cho một điều vĩ đại, một tầm nhìn lớn về tương lai của thứ vật chất được biết đến với cái tên “dầu mỏ” nhằm phân biệt với các loại dầu thực vật và mỡ động vật. Họ biết rằng, dầu mỏ sủi bong bóng trên mặt các con suối hoặc thẩm thấu vào các giếng nước mặn ở khu vực xung quanh vùng Sông Dầu, một địa danh nằm giữa vùng đồi núi xa xôi ở phía tây bắc bang Pennsylvania. Tại vùng đất hoang vu này, người ta tìm được một số thùng dầu bằng những phương tiện hết sức thô sơ. Họ chỉ việc hớt loại vật chất tối màu và nặng mùi này trên mặt các con suối và nhánh sông hoặc vắt những miếng giẻ hay chăn nhúng trong nước có chứa dầu. Người ta sử dụng phần lớn lượng dầu nhỏ bé thu lượm được này để sản xuất thuốc. Nhóm các nhà đầu tư này cho rằng có thể khai thác dầu mỏ với khối lượng lớn hơn nhiều rồi chế biến thành một loại chất lỏng có thể dùng để thắp sáng. Họ chắc chắn loại dầu mới này sẽ có khả năng cạnh tranh mạnh với loại nến đang chiếm lĩnh thị trường vào những năm 1850. Tóm lại, họ tin tưởng rằng nếu khai thác được dầu với khối lượng đủ lớn, họ có thể tung ra thị trường một loại dầu thắp sáng chất lượng cao, giá thành thấp mà vào giữa thế kỷ XIX loài người đang rất cần. Họ bị thuyết phục bởi ý nghĩ rằng họ có thể chiếu sáng cho các thị trấn và nông trại tại Bắc Mỹ và châu Âu. Quan trọng hơn, họ có thể sử dụng dầu mỏ để bôi trơn các bộ phận chuyển động của máy móc trong buổi bình minh của kỷ nguyên cơ khí. Và cũng giống như tất cả những doanh nhân tin tưởng vào giấc mơ của riêng mình, họ còn tin rằng họ sẽ trở nên vô cùng giàu có nếu làm được tất cả những việc này. Không ít người nhạo báng họ. Tuy nhiên, nhờ kiên trì, những người này đã thành công trong việc đặt nền móng cho một kỷ nguyên hoàn toàn mới trong lịch sử nhân loại – kỷ nguyên dầu lửa.
Để “xoa dịu những phiền muộn của chúng ta”
Dự án này bắt nguồn từ những ý định tình cờ và lòng quyết tâm của George Bissell, người đi đầu trong việc sáng lập ngành công nghiệp dầu lửa. Với khuôn mặt dài, nhọn và vầng trán rộng, Bissell toát ra vẻ đẹp trí tuệ đầy ấn tượng. Ông là một người sắc sảo và nhạy bén với các cơ hội kinh doanh vì đã có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Tự lập từ năm 12 tuổi, Bissell tự trang trải cho việc học tập tại trường Cao đẳng Dartmouth bằng cách đi dạy và viết báo. Sau Khi tốt nghiệp, ông từng làm giảng viên tiếng Latinh và Hy Lạp, rồi chuyển tới Washington để làm báo. Cuối cùng, Bissell định cư ở New Orleans, nơi ông trở thành hiệu trưởng của một trường trung học rồi làm giám thị của các trường công. Trong thời gian rảnh, ông học thêm để lấy bằng luật sư và tự học thêm nhiều ngôn ngữ nữa, và cuối cùng, ông thành thạo cả tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Bồ Đào Nha và có thể đọc, viết bằng tiếng Do Thái cổ, tiếng Phạn, tiếng Hy Lạp cổ và hiện đại, tiếng Latinh và tiếng Đức. Nhưng do sức khỏe kém, Bissell buộc phải trở lại Washington. Trên đường trở về, khi đi qua Pennsylvania ông nhìn thấy một số hoạt động khai thác dầu thô sơ với các vợt hớt và giẻ thấm dầu. Không lâu sau, khi tới thăm mẹ ở Hanover, bang New Hampshire, Bissell tới trường cũ của ông, trường Dartmouth. Tại đây, ông quan sát thấy một chai chứa mẫu dầu mỏ giống như ở Pennsylvania do một học sinh cũ của trường đang làm bác sĩ tại phía tây Pennsylvania mang đến.
Bissell biết rằng loại dầu này đang được sử dụng như những loại thuốc dân gian và cả biệt dược để chữa nhiều loại bệnh từ đau đầu, đau răng, điếc… tới rối loạn tiêu hóa, nhiễm giun sán, thấp khớp và phù, cũng như làm liền các vết thương trên lưng ngựa và la. Loại dầu này được gọi là “dầu Seneca” theo tên người da đỏ địa phương đặt để bày tỏ lòng kính trọng với thủ lĩnh Red Jacket, nhân vật được cho là đã truyền lại những bí quyết chữa lành vết thương của loại dầu này cho người da trắng. Một công ty cung cấp dầu Seneca đã quảng cáo “sức mạnh chữa bệnh kỳ diệu” của loại dầu này bằng một bài thơ như sau:
Thứ dầu tuyệt hảo đến từ dòng suối bí mật của thiên nhiên,
Đem đến cho con người sự khởi sắc trong sức khỏe và cuộc sống;
Từ những đáy sâu và dòng chảy kỳ diệu của tự nhiên,
Để làm dịu những đớn đau và phiền muộn của chúng ta.
Bissell biết chất lỏng sền sệt màu đen này có thể đốt cháy được. Nhìn thấy mẫu dầu mỏ ở Dartmouth, ông lóe lên một ý tưởng loại dầu này không chỉ có thể dùng làm thuốc chữa bệnh mà còn có thể dùng làm dầu thắp sáng. Ông có thể thoát khỏi nỗi lo lắng về tiền bạc và trở nên giàu có nhờ việc phát triển thứ nhiên liệu này. Trực giác đó trở thành kim chỉ nam và niềm tin của ông, những điều được thử thách rất nhiều trong cuộc sống đầy thất vọng của ông sáu năm sau đó.
Vị giáo sư biến mất
Nhưng liệu có thể dùng dầu mỏ làm nhiên liệu đốt? Bissell đã khuấy động mối quan tâm của các nhà đầu tư khác và cuối năm 1854, nhóm doanh nhân đã thuê giáo sư Silliman của Đại học Yale phân tích và đánh giá khả năng đốt cháy và bôi trơn của dầu. Nhưng điều chủ yếu họ muốn là có được sự tán đồng của vị giáo sư danh tiếng này dành cho dự án để bán được cổ phiếu và huy động vốn. Không ai có thể đáp ứng tốt mục đích này bằng Silliman. Với vóc người to lớn, tráng kiện và “khuôn mặt tử tế, vui vẻ”, Silliman là một trong những tên tuổi vĩ đại và đáng kính nhất trong nền khoa học thế kỷ XIX. Ông là con trai của người sáng lập ngành hóa học Mỹ và bản thân ông cũng là một trong những nhà khoa học tiêu biểu nhất thời đó. Silliman cũng là tác giả của những cuốn sách giáo khoa vật lý và hóa học hàng đầu. Yale là thủ đô khoa học của nước Mỹ giữa thế kỷ XIX và cha con nhà Silliman chính là tâm điểm của trung tâm này.
Tuy nhiên, Silliman quan tâm đến thực tiễn nhiều hơn là lý thuyết và thực tiễn đã hút ông vào lĩnh vực kinh doanh. Hơn nữa, mặc dù có danh tiếng lớn và trình độ khoa học cao, ông luôn cần có thêm thu nhập. Lương làm khoa học rất thấp mà gia đình của ông lại đang phình ra. Do đó, ông thường nhận làm thêm các công việc tư vấn ở bên ngoài, cung cấp các đánh giá địa chất và hóa học cho nhiều đối tượng khách hàng. Mối quan tâm đến thực tiễn cũng thu hút ông tham gia trực tiếp vào những dự án kinh doanh mạo hiểm mà theo lời giải thích của ông, thành công của chúng sẽ đem đến cho ông “thật nhiều cơ hội… cho khoa học”. Một người em rể của ông thì tỏ ra hoài nghi hơn khi nhận xét: Benjamin Silliman “đang trên đà tụt dốc liên tục, về mặt này hay mặt khác. Thật đáng thương thay cho khoa học”.
Khi nhận việc phân tích dầu mỏ, Silliman luôn tạo cho khách hàng niềm tin mình đang có được bản báo cáo mong đợi. Silliman tuyên bố: “Tôi dám cam đoan với các ngài rằng kết quả này sẽ đáp ứng được những mong đợi của các ngài về giá trị của thứ vật chất này”. Ba tháng sau đó, khi gần kết thúc nghiên cứu, thậm chí ông còn có thái độ nhiệt tình hơn. Ông công bố đã có “thành công ngoài dự kiến trong việc sử dụng sản phẩm chưng cất của dầu mỏ làm chất đốt”. Các nhà đầu tư trông đợi rất nhiều vào bản báo cáo cuối cùng. Nhưng sau đó xảy ra một sự cố. Họ nợ Silliman số tiền 526,08 đô-la (tương đương khoảng 5.000 đô-la ngày nay) nên ông đã nhất quyết đòi họ phải chuyển trước 100 đô-la tiền mặt vào tài khoản của ông ở New York. Sự chậm trễ trong việc đặt cọc đã khiến vị giáo sư nổi giận. Xét cho cùng, ông không thực hiện dự án này chỉ vì lòng ham thích khám phá khoa học đơn thuần. Vì thế, ông tuyên bố sẽ giữ lại những kết quả nghiên cứu cho tới khi nào được thanh toán hết tiền. Trên thực tế, Silliman đã bí mật đưa bản báo cáo cho một người bạn cất giữ, còn ông đi xuống miền Nam, nơi người ta rất khó gặp được ông.
Các nhà đầu tư cảm thấy thất vọng. Báo cáo cuối cùng có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với việc thu hút thêm vốn. Cuối cùng, một trong những đối tác của Bissell đã chịu bỏ ra số tiền này với sự bảo đảm của chính Bissell. Bản báo cáo đề ngày 14 tháng 4 năm 1855 đã được giao cho các nhà đầu tư và nhanh chóng được chuyển tới nhà in. Mặc dù vẫn phát khiếp vì khoản thù lao phải trả cho Silliman, nhưng trên thực tế, các nhà đầu tư này vẫn thu được nhiều hơn số tiền họ bỏ ra. Theo nhận định của một nhà sử học, nghiên cứu của Silliman chính là “một bước ngoặt trong sự hình thành ngành dầu lửa”. Silliman đã xua tan những nghi ngờ về khả năng sử dụng dầu mỏ theo những phương thức mới.
Ông chỉ ra cho các khách hàng của mình là có thể đun sôi dầu mỏ ở các nhiệt độ khác nhau và nhờ vậy có thể chưng cất dầu thành nhiều sản phẩm có thành phần chính là carbon và hydro. Một sản phẩm quan trọng trong số đó là loại dầu thắp sáng chất lượng rất cao. Silliman viết: “Thưa các ngài, tôi hoàn toàn có cơ sở để tin công ty của các ngài sở hữu một loại vật liệu thô mà từ đó có thể chế tạo ra những sản phẩm rất có giá trị bằng các quy trình giản đơn và không hề tốn kém. Thưa các ngài, sau những nỗ lực nghiên cứu không mệt mỏi, tôi có thể bảo đảm rằng công ty của các ngài đang sở hữu một loại tài nguyên quý giá. Với các quy trình công nghệ đơn giản và kinh tế, nó có thể tạo ra các sản phẩm có giá trị cao”. Do những vướng mắc về tài chính đã được giải quyết, Silliman lại sẵn sàng tham gia các dự án tiếp theo.
Có bản báo cáo của Silliman trong tay, bản báo cáo giống như một lời quảng cáo có sức thuyết phục nhất dành cho vụ kinh doanh này, nhóm các nhà đầu tư trên không gặp trở ngại nào trong việc huy động các nguồn vốn cần thiết từ các nhà đầu tư khác. Bản thân Silliman cũng mua 200 cổ phiếu, khiến doanh nghiệp đã được biết tới với cái tên Công ty dầu mỏ Pennsylvania này càng kính nể ông hơn. Tuy nhiên, thời kỳ khó khăn còn kéo dài thêm một năm rưỡi nữa trước khi các nhà đầu tư sẵn sàng tham gia vào bước tiến mạo hiểm tiếp theo.
Nhờ nghiên cứu của Silliman, giờ đây họ biết rằng có thể chiết xuất một chất lỏng dùng để đốt cháy từ dầu mỏ. Nhưng lượng dầu mỏ có sẵn liệu có đủ không? Một vài người cho rằng, dầu chỉ là những “giọt nhỏ” chảy ra từ các vỉa than ngầm. Một điều chắc chắn là không thể xây dựng hoạt động kinh doanh bằng cách vớt váng dầu trên mặt sông hoặc vắt dầu từ những mảnh giẻ rách thấm nước chứa dầu. Trước khi quyết định đầu tư lớn, vấn đề sống còn mà cả công ty này cùng hướng vào là phải chứng tỏ dầu mỏ tồn tại với khối lượng đủ để khai thác được.
Giá cả và sự cải tiến
Niềm hy vọng vào những đặc tính vẫn còn bí hiểm của dầu hoàn toàn xuất phát từ nhu cầu thuần túy. Dân số tăng và sự phát triển kinh tế lan rộng nhờ cuộc cách mạng công nghiệp khiến nhu cầu ánh sáng nhân tạo ngày càng tăng. Trong suốt nhiều thế kỷ trước, người ta hầu như chỉ dùng những chiếc bấc đèn đơn giản nhúng vào mỡ động vật hay dầu thực vật. Còn với những người có tiền, mỡ cá nhà táng đã được coi là chuẩn mực của dầu thắp sáng chất lượng cao. Tuy nhiên, những đàn cá voi ở Đại Tây Dương dần biến mất và các con tàu săn cá ngày càng phải đi xa hơn, tới khu vực xung quanh mũi Hảo Vọng và cả những vùng biển xa xôi trên Thái Bình Dương. Đối với dân săn cá voi, đây là kỷ nguyên vàng vì giá cả đang tăng lên. Nhưng với người tiêu dùng thì ngược lại, họ không muốn phải trả tới 2,5 đô-la để mua một gallon mỡ cá, và hiển nhiên, đó chưa phải là mức giá cuối cùng. Những loại dầu thắp sáng giá rẻ đã được phát triển nhưng tất cả đều kém chất lượng. Loại phổ biến nhất là camphene, một chất dẫn xuất từ nhựa thông cháy sáng nhưng nhược điểm là rất dễ cháy và tệ hơn nữa là có thể gây nổ. Một loại khác là khí đốt chưng cất từ than được vận chuyển bằng đường ống tới các ngọn đèn đường và tới các gia đình trung lưu và thượng lưu ngày càng đông đảo tại các khu vực đô thị, song nó lại quá đắt đỏ. Nhu cầu về một loại dầu thắp sáng với giá thành tương đối rẻ, an toàn vẫn ngày càng cấp bách. Bên cạnh đó, những tiến bộ trong ngành cơ khí đã cho ra đời nhiều loại máy móc, thiết bị và máy in vận hành bằng hơi nước nên nhu cầu về dầu bôi trơn thay thế cho mỡ động vật đang được sử dụng hồi đó cũng tăng lên đáng kể.
Cuối thập niên 1840 đầu thập niên 1850, giới doanh nhân đã đưa ra nhiều sáng kiến đáp ứng các nhu cầu này với dầu thắp sáng và dầu bôi trơn chiết xuất từ than và các loại hydrocarbon khác. Một số nhân vật tại Anh và Bắc Mỹ đã xúc tiến cuộc tìm kiếm dầu mỏ, xác định và phân loại thị trường và từng bước hoàn thiện công nghệ lọc dầu, tạo nên những nền tảng cơ bản cho công nghiệp dầu lửa, phát triển công nghệ lọc dầu mà sau này Thomas Cochrane, một đô đốc người Anh từng bị xử ở tòa án binh và được coi là hình mẫu cho nhân vật Don Juan của Byron, bị ám ảnh vì tiềm năng của nhựa đường và trong quá trình phát triển loại vật liệu này, ông đã trở thành chủ sở hữu một mỏ nhựa đường lớn ở Trinidad.
Có thời gian, Cochrane hợp tác với một người Canađa là Tiến sĩ Abraham Gesner. Khi còn trẻ, Gesner đã thử bắt đầu việc kinh doanh xuất khẩu ngựa sang Tây Ấn nhưng sau hai lần tàu chở ngựa bị đắm, ông từ bỏ công việc này và tới nghiên cứu y học tại Bệnh viện Guy’s London. Trở lại Canađa, Gesner lại chuyển sang nghiên cứu địa chất ở New Brunswich. Ông đã phát triển quy trình chiết xuất dầu từ nhựa đường hoặc các chất tương tự và tinh chế dầu này thành dầu thắp sáng chất lượng cao. Ông gọi nhiên liệu này là “kerosene” – dầu lửa – ghép từ Keros và elaion, hai từ trong tiếng Hy Lạp cổ có nghĩa là “sáp ong” và “dầu”. Ông đã thay đổi từ elaion thành ene để sản phẩm có tên gọi nghe tương tự như camphene. Năm 1854, Gesner nộp đơn xin cấp bằng sáng chế của Mỹ cho việc sản xuất “một chất lỏng hydrocarbon mới mà tôi đặt tên là dầu lửa và có thể dùng thắp sáng và cho các mục đích khác”. Năm 1894, Gesner nộp đơn xin cấp bằng sáng chế “Phương thức mới sản xuất chất lỏng hydrocarbon (gọi tắt là dầu lửa) và sử dụng cho quá trình thắp sáng và các mục đích khác”.
Gesner tham gia thành lập một nhà máy sản xuất dầu lửa ở thành phố New York và đến năm 1859, nhà máy này đã sản xuất được 5.000 gallon dầu mỗi ngày. Một nhà máy tương tự cũng được xây dựng ở Boston. Nhà hóa học người Scotland, James Young đi tiên phong trong việc xây dựng một nhà máy lọc dầu sử dụng nguyên liệu là than nén ở Anh. Một nhà máy sử dụng nguyên liệu đá phiến cũng được xây dựng ở Pháp. Đến năm 1859, ước tính có khoảng 34 công ty ở Mỹ sản xuất được dầu lửa và parafin với doanh thu 5 triệu đô-la giá trị sản phẩm. Khi đó, báo chí ca ngợi sự tăng trưởng trong lĩnh vực dầu mỏ là bằng chứng “về một thứ năng lượng tuyệt diệu mà với nó, nước Mỹ sẽ tham gia bất kỳ lĩnh vực nào của ngành công nghiệp hứa hẹn lợi nhuận cao”. Dầu lửa không xa lạ gì với loài người. Tại nhiều vùng ở Trung Đông, một chất dạng bùn nhão gọi là bitum thấm ra ngoài từ các vết nứt vỡ và đã được khai thác từ xa xưa. Ở Địa Trung Hải và Trung Đông, bitum được khai thác từ năm 3.000 trước Công nguyên. Nguồn dầu lửa nổi tiếng nhất là ở Hit, trên con sông Euphrates, cách Babylon không xa (ngày nay là thành phố Baghdad). Vào thế kỷ I trước Công nguyên, sử gia Hy Lạp Diodor đã viết về ngành khai thác bitum cổ đại: “Mặc dù có những điều thần kỳ xảy ra ở đất nước Babylon nhưng không gì có thể so sánh được với khối lượng nhựa đường khổng lồ được tìm thấy ở đây”. Ở một số nơi, lượng bitum thấm ra ngoài cùng với hơi dầu liên tục bốc cháy đã khiến người dân Trung Đông tôn sùng lửa.
Bitum là một mặt hàng được đem ra trao đổi ở Trung Đông thời cổ đại. Nó được dùng làm vữa trong xây dựng, gắn kết các bức tường của hai thành phố Jericho và Babylon. Theo phong tục thời bấy giờ, có thể cả con thuyền Noah và chiếc giỏ của Moses[2] đã được trét bằng bitum để chống thấm nước. Bitum cũng được sử dụng để làm đường và chiếu sáng. Tuy nhiên, nhìn chung, công dụng chiếu sáng của chất này rất hạn chế và không mấy hiệu quả. Ngoài ra, bitum cũng được dùng làm thuốc chữa bệnh. Về giá trị dược lý, những gì nhà tự nhiên học La Mã Pliny miêu tả vào thế kỷ I cũng tương tự như những gì đang diễn ra ở nước Mỹ vào những năm 1850. Pliny viết, bitum giúp chống chảy máu, làm liền các vết thương, điều trị bệnh đục thủy tinh thể, làm dầu xoa bóp cho bệnh nhân mắc bệnh gút, chữa đau răng, làm dịu những cơn ho kinh niên, làm giảm những cơn thở gấp, chữa tiêu chảy, nối lại những đoạn cơ bị cắt lìa, làm giảm đau khớp và hạ sốt. Chất này cũng “có công dụng làm thẳng những sợi lông mi quặm gây khó chịu cho mắt”.
Dầu lửa còn có một công dụng nữa. Dầu cặn bị đốt cháy hóa ra lại đóng một vai trò lớn, đôi khi là quyết định, trong chiến tranh. Trong trường ca Iliad, Homer viết: “Quân Tơroa đốt một đống lửa cháy liên tục trên con tàu có tốc độ cao và từ con tàu phóng ra một ngọn lửa rất khó dập tắt”. Khi vua Cyrus của Ba Tư chuẩn bị đánh chiếm Babylon, ông được cảnh báo về mối nguy hiểm của các cuộc chiến đấu trên đường phố. Ông đáp lại bằng cách tuyên bố: “Chúng tôi cũng có khối dầu hắc ín và dây thừng để làm cho lửa lan ra khắp nơi, buộc những ai đang ở trên các mái nhà phải nhanh chóng bỏ chạy nếu không muốn bị tiêu diệt”. Kể từ thế kỷ VII, những người thuộc đế chế Byzantine đã sử dụng oleum incendiarum – thứ hỏa lực Hy Lạp. Đó là một hỗn hợp giữa dầu và vôi, khi tiếp xúc với độ ẩm sẽ bốc cháy. Công thức này là một bí mật quốc gia được bảo vệ chặt chẽ. Quân Byzantine đem chất hỗn hợp này lên các con tàu chiến, tẩm vào đầu các mũi tên và phết lên những quả lựu đạn thô sơ. Trong nhiều thế kỷ, hỗn hợp này được coi là một thứ vũ khí đáng sợ hơn cả thuốc súng.
Như vậy, việc sử dụng dầu lửa ở Trung Đông có cả một lịch sử dài và đa dạng. Tuy nhiên, một điều rất khó hiểu là những kiến thức về lĩnh vực này không được phương Tây biết đến trong nhiều thế kỷ, có thể là vì những nguồn bitum lớn và các cách sử dụng chất này nằm bên ngoài biên giới Đế quốc La Mã và những kiến thức này không được truyền bá trực tiếp tới phương Tây. Tuy vậy, ở một vài nơi tại châu Âu như Bavaria, Sicily, thung lũng Po, Alsace, Hannover và Galicia, người ta đã theo dõi và bình luận về hiện tượng rò rỉ dầu ngay từ thời Trung cổ. Và công nghệ lọc dầu đã được những người Ả Rập đưa tới châu Âu. Nhưng nhìn chung, dầu vẫn chỉ được sử dụng như một phương thuốc chữa bệnh đa tác dụng và điều này càng được những nghiên cứu chuyên sâu của các giáo sĩ và thầy thuốc củng cố thêm. Dầu cũng được khai thác với quy mô nhỏ ở Đông Âu, ban đầu là ở Galicia (địa danh từng là một phần của Ba Lan, Áo và Nga) rồi ở Rumani. Những người nông dân đã đào hầm mỏ bằng tay để lấy dầu thô, nhiên liệu dùng để lọc thành dầu lửa. Một dược sĩ từ Lvov, với sự giúp đỡ của một thợ ống nước, đã phát minh ra một loại đèn đốt dầu giá rẻ. Tới năm 1854, dầu là mặt hàng thương mại chính ở Viên và đến năm 1859, ngành dầu lửa đã phát triển mạnh mẽ ở Galicia với hơn 150 ngôi làng tham gia hoạt động khai thác dầu. Gộp chung lại, sản lượng dầu thô của châu Âu năm 1859 ước tính vào khoảng 36.000 thùng, chủ yếu được khai thác ở Galicia và Rumani. Điều mà ngành công nghiệp của Đông Âu này còn thiếu chính là công nghệ khoan.
Vào những năm 1850, việc phát triển dầu lửa tại Mỹ vấp phải hai rào cản lớn. Đó là chưa có một nguồn cung dầu đáng kể nào và chưa có loại đèn giá rẻ phù hợp để đốt loại dầu đó. Những loại đèn thời đó khi đốt tạo ra rất nhiều khói và gây cay mũi. Sau đó, một đại lý bán dầu tại New York đã phát hiện ra một loại đèn có ống khói bằng thủy tinh để đốt dầu lửa đang được sản xuất tại Viên. Dựa trên thiết kế của người dược sĩ và người thợ đường ống ở Lvov, chiếc đèn đã khắc phục được các vấn đề khói và mùi. Đại lý dầu New York nhập khẩu loại đèn này và nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường. Do liên tục được cải tiến, loại đèn xuất xứ từ Viên này đã trở thành cơ sở cho hoạt động sản xuất, kinh doanh đèn dầu tại nước Mỹ và sau đó được xuất khẩu trên khắp thế giới.
Như vậy, đến thời điểm Bissell khởi đầu dự án dầu lửa, loại dầu thắp sáng tốt và rẻ hơn đã được nhiều gia đình sử dụng. Những kỹ thuật cần thiết để lọc dầu thô thành dầu lửa đã được thương mại hóa với các loại parafin. Và một loại đèn giá rẻ cũng đã được phát triển để đốt dầu và đã đem lại những hiệu quả nhất định. Thật ra, những gì Bissell và các nhà đầu tư tại Công ty dầu mỏ Pennsylvania đang nỗ lực tìm kiếm là khám phá một nguồn nhiên liệu thô mới. Tựu chung, giá cả chính là vấn đề. Nếu họ có thể tìm thấy dầu mỏ đủ để đáp ứng nhu cầu, dầu sẽ được bán với giá rẻ và giành được thị phần của những sản phẩm dầu thắp sáng giá đắt hơn nhiều, hoặc không làm khách hàng hài lòng.
Việc đào lấy dầu không giải quyết được vấn đề. Nhưng có lẽ còn một giải pháp thay thế khác. Việc khoan tìm muối đã phát triển trước đó hơn 15 năm ở Trung Quốc, với các giếng muối khoan sâu tới 360 mét, chính là một gợi ý. Vào khoảng năm 1830, phương pháp cổ truyền của người Trung Quốc du nhập sang châu Âu và được người châu Âu học tập và rồi sau đó những kinh nghiệm này đã thúc đẩy việc khoan giếng muối ở Mỹ.
Khi đang trăn trở với dự án của mình, vào một ngày nóng bức năm 1856 ở New York, George Bissell tránh nắng dưới mái hiên của một tiệm thuốc trên đại lộ Broadway và bất chợt nhìn thấy tờ quảng cáo một loại thuốc sản xuất từ dầu mỏ, trên đó có hình ảnh nhiều giàn khoan các mỏ muối. Loại dầu mỏ dùng để chế tạo loại biệt dược đó là phụ phẩm thu được trong quá trình khoan khai thác muối. Với sự tình cờ này, tiếp theo những hoạt động ông đã thấy ở tây Pennsylvania và trường Dartmouth trước đây, Bissell nảy ra ý tưởng áp dụng công nghệ khoan khai thác muối để khoan dầu.
Bissell, rồi đến các nhà đầu tư khác trong Công ty dầu mỏ Pennsylvania đều nhận thức sâu sắc là phải áp dụng kỹ thuật khoan muối vào việc khai thác dầu. Họ sẽ khoan thay vì đào để lấy dầu mỏ. Nhiều nhà đầu tư khác ở Mỹ và Ontario, Canađa cũng đang thử nghiệm kỹ thuật trên. Tuy nhiên, Bissell và cộng sự đã sẵn sàng hiện thực hóa ý tưởng này. Họ đã có báo cáo của Silliman và nhờ nó đã huy động được vốn. Tuy nhiên, ý tưởng của họ không được đánh giá nghiêm túc. Khi ông chủ nhà băng James Townsend bàn về ý tưởng khoan dầu, nhiều người ở New Haven đã nhạo bang: “Ồ, Townsend! Dầu đi ra từ lòng đất, bơm dầu lên mặt đất như ông bơm nước ư? Thật vớ vẩn! Ông điên mất rồi!” Mặc dù vậy, các nhà đầu tư vẫn quyết tâm tiến hành. Họ tin vào cơ hội và nhu cầu ngày càng tăng. Nhưng liệu họ có thể giao phó dự án điên rồ này cho ai?
“Ngài Đại tá”
Ứng cử viên của họ là Edwin L. Drake, một nhân vật tình cờ được lựa chọn. Là người biết mỗi thứ một chút nhưng không giỏi thứ gì, chắc chắn Drake không có phẩm chất nổi bật hay rõ ràng nào để đảm nhiệm công việc này. Ông từng làm nhân viên đường sắt nhưng nghỉ ốm vì sức khỏe kém và khi đó đang sống với con gái tại Tontine, một khách sạn cũ kỹ ở New Haven. Tình cờ, James Townsend, chủ ngân hàng New Haven cũng ở trong khách sạn đó. Đây là loại khách sạn mà đàn ông thích tụ tập trao đổi tin tức và chơi bài, những hoạt động rất hợp với Drake, người đàn ông 38 tuổi, thân mật, vui tính, hay nói và đang rỗi rãi. Vì thế, Drake có thể bỏ ra cả buổi tối để giải trí với đám bạn hữu bằng những câu chuyện muôn màu muôn vẻ của mình. Drake có trí tưởng tượng phong phú và những câu chuyện ông kể thường đầy kịch tính, được cường điệu hóa mà trong đó, chính ông là nhân vật trung tâm, nhân vật anh hùng. Drake và Townsend thường trò chuyện về dự án dầu mỏ này. Thậm chí, Townsend còn thuyết phục Drake mua cổ phần trong công ty. Sau đó, Townsend đã thuê Drake tham gia dự án. Drake đang thất nghiệp và muốn có việc làm. Mặt khác, là một nhân viên đường sắt đang nghỉ ốm nên Drake có vé tháng đi tàu lửa miễn phí, yếu tố có lợi nhất đối với một dự án đầu tư mạo hiểm đang gặp khó khăn tài chính. Drake còn có một lợi thế khác: Ông là người rất bền chí.
Phái Drake tới Pennsylvania, Townsend đã trao cho ông một thứ xem ra rất có giá trị. Lo ngại về tình hình ở vùng biên giới và sự cần thiết phải gây ấn tượng với “bọn rừng rú”, ông chủ nhà băng này đã gửi đi nhiều bức thư đề tên “Đại tá” E.L. Drake. Như vậy, một “Đại tá” Drake đã được tạo ra. Mưu kế này đã có tác dụng. Tháng 12 năm 1857, sau chặng hành trình mệt mỏi vượt qua vùng bùn lầy rộng lớn trên chiếc xe ngựa chở thư chạy hai chuyến mỗi tuần, “Đại tá” E.L. Drake đã đặt chân tới làng Titusville. Tại ngôi làng nhỏ, nghèo nàn với dân số 125 người, nằm lọt giữa những ngọn đồi ở phía Tây Bắc Pennsylvania, “Ngài Đại tá” đã được đón tiếp nồng hậu. Titusville là một làng nghề xẻ gỗ, nơi người dân đang ngập trong nợ nần với cửa hàng của công ty gỗ địa phương. Nhìn chung, người ta cho rằng, ngôi làng này sẽ chết khi cây cối trên những ngọn đồi xung quanh bị đốn trụi và thiên nhiên hoang dã sẽ lại phủ kín cả khu vực này.
Công việc đầu tiên của Drake đơn thuần chỉ là hoàn thiện tư cách của ông đối với vùng khai thác dầu trong tương lai, hiện đang nằm trên khu vực một nông trang. Ông nhanh chóng hoàn tất công việc này và trở về New Haven để tính toán bước tiến đầy khó khăn tiếp theo là khoan để lấy dầu. Sau này, ông nói: “Tôi đã hình dung là có thể khai thác dầu với khối lượng lớn bằng cách khoan như khai thác muối. Tôi cũng tin mình sẽ làm được nhưng rất nhiều người không đồng ý với tôi, họ cho rằng dầu chỉ chảy ra thành những giọt nhỏ từ một vỉa than lớn”.
Tuy nhiên, Drake không hề thoái chí hay lệch hướng. Mùa xuân năm 1858, ông trở lại Titusville để bắt đầu công việc. Nhóm các nhà đầu tư đã lập một công ty mới là Công ty dầu Seneca với Drake làm trưởng đại lý. Drake đặt địa điểm khai thác cách Titusville khoảng hai dặm[3], trên một nông trại có dòng suối dầu chảy qua. Hàng ngày, người ta vẫn thu thập được từ ba đến sáu gallon dầu từ dòng suối này bằng các phương pháp truyền thống. Nhiều tháng sau khi trở lại Titusville, Drake viết thư cho Townsend, nói: “Tôi sẽ không cố gắng đào để lấy dầu bằng tay nữa vì tôi tin chắc khoan là cách khai thác rẻ nhất”. Tuy nhiên, ông đề nghị ông chủ ngân hàng New Haven phải lập tức gửi thêm vốn. “Muốn làm bất cứ điều gì, chúng tôi phải có tiền. Làm ơn thông báo cho tôi biết ngay, ở đây đang rất thiếu tiền”. Sau một thời gian chậm trễ, Townsend cũng cố gửi cho Drake 1.000 đô-la. Với số tiền này, Drake thuê những “thợ khoan muối” mà ông cần để tiếp tục dự án. Do các thợ khoan muối có tiếng là thích rượu và thường trong tình trạng say xỉn nên Drake hết sức thận trọng với những người ông thuê. Drake ra điều kiện là những người thợ này hoàn thành công việc đến đâu thì được thanh toán đến đó với mức giá là 3 đô-la cho một mét sâu khoan được. Hai người thợ khoan đầu tiên Drake thuê đã chuồn mất. Thật ra, mặc dù không dám nói thẳng với Drake, nhưng họ nghĩ ông thật ngây thơ. Drake chỉ biết rằng ông chưa làm được gì trong năm đầu tiên tới Titusville và mùa đông giá lạnh đang tới gần. Vì thế, ông dồn sức lắp ráp chiếc động cơ hơi nước để cung cấp năng lượng cho mũi khoan hoạt động. Trong khi đó, các nhà đầu tư ở New Haven chờ đợi trong lo lắng.
Cuối cùng, vào mùa xuân năm 1859, Drake đã tìm được thợ khoan. Đó là một thợ rèn có tên William A. Smith – “Bác Billy” Smith – đến cùng với hai con trai. Smith biết đôi chút về những gì cần làm vì ông từng rèn công cụ cho các công nhân khoan nước mặn. Giờ đây, nhóm bắt đầu xây dựng giàn khoan và lắp đặt các thiết bị cần thiết. Họ cho rằng sẽ phải khoan sâu vào lòng đất hàng trăm mét. Tiến độ công việc rất chậm khiến các nhà đầu tư ở New Haven ngày càng cảm thấy không yên tâm. Tuy nhiên, Drake vẫn kiên quyết giữ nguyên kế hoạch. Rốt cục, Townsend là người duy nhất trong nhóm các nhà đầu tư còn tin tưởng vào dự án và khi dự án hết vốn, Townsend bắt đầu dùng tiền riêng để chi trả. Trong nỗi thất vọng, ông đã gửi cho Drake khoản tiền cuối cùng và yêu cầu Drake thanh toán các hóa đơn, đóng cửa dự án và trở về New Haven. Đó là vào cuối tháng 8 năm 1859.
Vào buổi chiều thứ bảy ngày 27 tháng 8 năm 1859, khi Drake vẫn chưa nhận được thư của Townsend, trong khi khoan tới độ sâu tám mét, mũi khoan rơi vào một khe nứt và trượt tiếp 20 cm nữa. Công việc phải tạm dừng. Ngày hôm sau, khi ra ngoài để xem cái giếng, Billy nhìn chăm chú vào đường ống và thấy một lớp chất lỏng tối màu nổi lên trên mặt nước. Ông liền dùng ống thiếc để hút lấy mẫu của chất lỏng đó. Khi xem xét mẫu chất lỏng khá nặng thu được, ông vui sướng đến ngộp thở. Vào ngày thứ Hai, khi tới nơi, Drake thấy Bác Billy và mấy cậu con trai đang đứng trông nhiều xô, thùng, chậu giặt và tất cả đều chứa đầy dầu. Drake vớ lấy một chiếc bơm tay và bắt đầu làm công việc mà những người nhạo báng ông từng đem ra làm trò cười – bơm lấy dầu. Cùng ngày hôm đó, ông nhận được thư chuyển tiền và lệnh đóng cửa giàn khoan do Townsend gửi. Nếu một tuần trước, có thể ông đã làm điều đó nhưng giờ thì không. Lòng kiên trì của Drake đã được đền đáp đúng lúc. Ông đã chạm tới dầu. Những người nông dân dọc theo vùng Sông Dầu đổ xô tới Titusville và hô vang: “Tay Yankee đã tìm thấy dầu”. Tin tức này lan đi nhanh chóng và người ta ồ ạt lao tới đây để khoan tìm dầu. Chẳng mấy chốc, dân số của làng Titusville bé nhỏ tăng lên gấp nhiều lần và giá đất cũng ngay lập tức tăng vọt.
Tuy nhiên, thành công trong việc khoan lấy dầu không bảo đảm thành công về tài chính. Drake và Bác Billy sẽ làm gì với dòng dầu chảy ra? Họ giữ chặt mọi thùng đựng whiskey mà họ nẫng được trong vùng này và khi tất cả những thùng đó đã đựng đầy dầu, họ đóng thêm nhiều thùng và đổ dầu vào đó. Không may, một đêm, lửa từ một chiếc đèn đã làm hơi dầu bốc cháy, khiến cả khu vực chứa dầu nổ tung và biến thành một biển lửa khổng lồ. Trong lúc đó, những giếng khoan khác ở khu vực xung quanh ngày càng lấy được nhiều dầu hơn. Nguồn cung vượt xa nhu cầu và giá dầu sụt mạnh. Với việc áp dụng kỹ thuật khoan, dầu mỏ không còn thiếu. Thứ duy nhất thiếu lúc này là các thùng đựng whiskey và chẳng mấy chốc, những chiếc thùng này có giá đắt gấp đôi so với lượng dầu chứa bên trong.